Chính sách BHTG giúp các TCTD thực hiện trách nhiệm với người gửi tiền - đối tượng tin tưởng trao tài chính của mình cho các TCTD kinh doanh. Điều kiện tham gia BHTG, loại tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm, hạn mức chi trả BHTG, quy trình, thủ tục chi trả BHTG, hoạt động giám sát, kiểm tra của tổ chức BHTG, phổ cập chính sách BHTG và tổ chức BHTG tham gia giải quyết khó khăn cho các TCTD có huy động tiền gửi là những nội dung cốt lõi của chính sách BHTG. Mức độ thực hiện các nội dung này phản ánh khả năng đáp ứng tiêu chí đạo đức và trách nhiệm xã hội của các TCTD, xét trên góc độ người gửi tiền.
Tham gia BHTG là điều kiện bắt buộc đối với các TCTD có huy động tiền gửi của người dân nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền. Bên cạnh đó, việc tham gia BHTG cũng góp phần giúp tăng cường niềm tin từ cộng đồng đối với hoạt động của các TCTD, từ đó tăng khả năng huy động tiền gửi để phục vụ các hoạt động kinh doanh, đầu tư sinh lời của các tổ chức này.
Nguồn thu phí BHTG từ tất cả các TCTD có huy động tiền gửi hình thành nên quỹ BHTG, được dùng để chi trả cho người gửi tiền trong tình huống có TCTD đóng cửa mà không đủ khả năng trả tiền gửi và các trách nhiệm tài chính khác cho khách hàng. Hơn nữa, với sự tham gia của hầu hết các TCTD có huy động tiền gửi (trừ ngân hàng chính sách), quỹ BHTG sẽ có khả năng chi trả cho số lượng lớn người gửi tiền ở TCTD đóng cửa. Điều này giảm đáng kể khả năng rủi ro xảy ra ở diện rộng, liên quan tới nhiều TCTD.
Phí BHTG được xác định theo hai hình thức: Phí tham gia (phí thành viên) thường được tính và nộp vào thời điểm TCTD được chấp nhận tham gia BHTG, và phí đóng góp thường xuyên. Hình thức phí thành viên rất ít được áp dụng, mà phổ biến là phí đóng góp thường xuyên. Có hai cách tính phí thường xuyên, đó là tính theo một tỷ lệ đồng hạng cho tất cả các TCTD tham gia BHTG và tính theo tỷ lệ phân biệt theo mức độ được đánh giá cho từng TCTD. Trong giai đoạn mới triển khai BHTG, hầu hết các quốc gia đều lựa chọn tỷ lệ phí đồng hạng để tính mức phí phải đóng của mỗi TCTD. Việc áp dụng tỷ lệ phí đồng hạng cho thấy yếu tố đáp ứng trách nhiệm xã hội, bởi nếu có sự phân biệt trong mức phí áp dụng sẽ tạo nên phản ứng thiếu tích cực trên thị trường. TCTD bị áp dụng phí cao sẽ là tín hiệu cho hoạt động ở mức độ rủi ro cao hơn. Độ trễ trong áp dụng phí phân biệt theo rủi ro cho phép TCTD khó khăn có lộ trình vươn lên và nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính sách BHTG.
Loại tiền gửi được bảo hiểm thông thường được thiết kế tùy thuộc vào mức độ phát triển của các TCTD ở mỗi quốc gia. Đối với quốc gia có hệ thống TCTD phát triển lâu đời, chuẩn hóa, đồng tiền quốc gia có tính chuyển đổi ở mức cao, có thương hiệu trên thị trường, và nhu cầu bảo vệ đồng nội tệ không đặt ra nhiệm vụ lớn cho hệ thống các TCTD thì loại tiền gửi được bảo hiểm có thể xem xét tới ngoại tệ. Cho tới nay, đối tượng tiền gửi là ngoại tệ chưa được nhiều quốc gia xem xét đưa vào danh sách tiền gửi được bảo hiểm. Hầu hết các quốc gia triển khai chính sách BHTG đều tập trung sự bảo vệ đối với đồng tiền nội địa, là cơ sở bền vững cho ổn định kinh tế, chính trị và xã hội.
Hạn mức chi trả BHTG phản ánh mức độ bồi thường cho người gửi tiền khi TCTD không có khả năng hoàn trả tiền gửi tức thì. Hạn mức chi trả được xác định dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người, mức độ lạm phát và mức độ đáp ứng dao động từ 80 - 90% số người gửi tiền tại các TCTD. Hơn nữa, hạn mức chi trả được xác định trả ngay tức thì cho người gửi tiền với số lượng tiền trong hạn mức. Số tiền gửi vượt hạn mức sẽ được xem xét trả trong giai đoạn thanh lý tài sản của TCTD đóng cửa. Như vậy, trật tự ưu tiên trong sử dụng quỹ BHTG là để chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhỏ lẻ. Đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thông qua hạn mức chi trả và thủ tục chi trả thuận lợi, công khai và minh bạch là một trong số các yếu tố cơ bản đáp ứng trách nhiệm xã hội của chính sách BHTG; qua đó góp phần gia tăng niềm tin người gửi tiền đối với hoạt động của các TCTD.
Giám sát, kiểm tra tổ chức tham gia BHTG là những nghiệp vụ nòng cốt, cho phép tổ chức BHTG đóng góp trực tiếp vào giảm thiểu rủi ro phát sinh trong hoạt động của TCTD. Tùy vào mức độ triển khai và phát triển chính sách BHTG của mỗi quốc gia mà chức năng kiểm tra và giám sát được xây dựng đảm bảo tính đồng bộ trong giám sát hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, tránh chồng chéo với các thiết chế khác trong mạng an toàn tài chính.
Hoạt động phổ cập chính sách BHTG được tổ chức BHTG chủ trì triển khai dưới nhiều hình thức và bao gồm nhiều đối tác cùng tham gia. Mức độ phổ cập nội dung chính sách BHTG quyết định tới tác dụng và hiệu quả triển khai chính sách. Các biểu hiện hoang mang, mất niềm tin, hiệu ứng đám đông khi có thông tin bất lợi về hoạt động của TCTD sẽ được kiểm soát và hạn chế nếu nội dung chính sách BHTG được phổ cập cụ thể, sâu rộng và hiệu quả tới công chúng.
Yếu tố nhắc đến cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng trong thực thi trách nhiệm xã hội là quá trình tổ chức BHTG tham gia giải quyết khó khăn cho TCTD có huy động tiền gửi. Khi TCTD có khó khăn, tổ chức BHTG là kênh hỗ trợ đắc lực, sẽ triển khai các hoạt động hỗ trợ cần thiết để khắc phục, chuyển giao xử lý khó khăn.
Theo đó, tổ chức BHTG có thể cho vay hỗ trợ thanh khoản cho TCTD có khó khăn, kiểm tra phát hiện sai phạm, phối hợp tìm đối tác chuyển giao (mua lại) TCTD và cuối cùng có thể đảm trách là người điều hành chèo lái TCTD có khó khăn (triển khai ngân hàng bắc cầu)... Những hoạt động này có tác dụng trực tiếp giải quyết khó khăn của TCTD trước, trong và sau khi chi trả BHTG, góp phần giải quyết tối ưu quyền lợi của người gửi tiền.
Thành công của công cụ BHTG có thể được đánh giá ở nhiều góc độ, hơn hết và trước tiên, khi hầu hết người gửi tiền được bảo vệ quyền lợi, dòng lưu chuyển tài chính của nền kinh tế không bị gián đoạn, khó khăn của TCTD không bị trầm trọng hơn… Có thể khẳng định, công cụ BHTG đã góp phần thực hiện tối ưu trách nhiệm xã hội của các TCTD, xét trên góc độ người gửi tiền.
CB