TS. Nguyễn Đức Kiên TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội:
Quỹ BHTG được xem như một “của để dành”
Hiện nay, trên thế giới có hơn 100 quốc gia thành lập hệ thống BHTG với ba mô hình hoạt động. Đó là mô hình giảm thiểu rủi ro, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình chi trả. Với mỗi mô hình, BHTG phục vụ cho những mục tiêu chính sách công nhất định.
Trước hết, mục tiêu tôn chỉ của tổ chức BHTG là bảo vệ người gửi tiền, mà trên hết là những người gửi tiền nhỏ, ít hiểu biết về tài chính. Khi người dân thiếu lòng tin vào hệ thống tài chính - ngân hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và sau đó là toàn bộ nền kinh tế của quốc gia cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Người dân sẽ phản ứng bằng nhiều cách như rút tiền ồ ạt từ hệ thống ngân hàng, chuyển sang đầu cơ và tích trữ các loại tài sản khác như vàng, ngoại tệ… khiến cho dòng tiền không được đổ vào sản xuất, Chính phủ khó kiểm soát thị trường và gặp vướng mắc trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Nếu không có hệ thống BHTG thì khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, Chính phủ phải đứng ra chi trả cho người gửi tiền bằng nguồn tiền từ NSNN và điều này tạo ra gánh nặng rất lớn cho tài chính quốc gia. Thực tiễn xử lý các cuộc khủng hoảng ngân hàng, trợ giúp phục hồi hoạt động ngân hàng liên quan đến khủng hoảng cho thấy chi phí cho hoạt động này ở mức trung bình là khoảng 13,3% GDP và mức cao lên tới 55,1% GDP. Tuy nhiên, với các nghiệp vụ về BHTG, một tổ chức BHTG có thể đứng ra tiếp quản ngân hàng bị đổ vỡ, hay tìm ngân hàng có khả năng đứng ra tiếp quản, tìm cách thanh lý tài sản xấu để bồi thường cho người gửi tiền, nhờ đó giảm gánh nặng cho NSNN.
BHTG còn thực hiện một vai trò khác không kém phần quan trọng nữa đó là duy trì sự phát triển lành mạnh và ổn định hệ thống tài chính quốc gia, góp phần phát triển kinh tế. BHTG có vai trò quan trọng trong giảm thiểu những tác động bất lợi khi xảy ra khủng hoảng tài chính - ngân hàng. Việc tiền gửi của người dân được một tổ chức thay mặt Chính phủ đứng ra bảo hiểm sẽ góp phần ngăn ngừa hoảng loạn và tình trạng người dân rút tiền ồ ạt do lo ngại đổ vỡ ngân hàng, mà trong nhiều trường hợp chính điều này lại đẩy các ngân hàng đến tình trạng mất khả năng thanh khoản nhanh hơn. Mặt khác, một khi có ngân hàng gặp vấn đề, tổ chức BHTG sẽ đứng ra tiếp nhận và xử lý nhằm giúp thu hồi vốn một cách nhanh chóng với chi phí thấp nhất.
Ngoài ra, BHTG còn là một trong những nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế. Huy động vốn từ khu vực dân cư để phục vụ phát triển kinh tế là yêu cầu bắt buộc đối với mọi nền kinh tế, đặc biệt đối với những nước đang phát triển có nhu cầu về vốn rất lớn cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sử dụng nhiều kênh khác nhau để thu hút nguồn vốn nhưng một kênh rất quan trọng là thu hút nguồn vốn qua các ngân hàng.
Thông qua vai trò bảo vệ người gửi tiền, BHTG đã góp phần xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, lành mạnh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, bảo đảm sự thông suốt của quá trình phân bổ và luân chuyển các nguồn lực tài chính, giúp cho các thành phần kinh tế tiếp cận được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư một cách dễ dàng hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh hoạt động của hệ thống ngân hàng đang được coi là một trong những trọng tâm quan trọng của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, việc nâng cao chất lượng của hoạt động BHTG và tổ chức BHTG có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng nói chung, tổ chức và hoạt động của BHTG nói riêng.
Quy trình IDIC xử lý ngân hàng không có nguy cơ gây rủi ro hệ thống. Nguồn IDIC Website
Ông Hà Huy Tuấn |
Ông Hà Huy Tuấn, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia:
BHTG – Góc nhìn từ kinh nghiệm của Indonesia
Nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, khi hệ thống ngân hàng Mỹ và châu Âu “chao đảo” trong tâm bão, khu vực châu Á vẫn duy trì được sự ổn định nhất định. Trong đó, Indonesia được coi là điểm tích cực khi ngay trong giai đoạn đỉnh điểm của khủng hoảng năm 2008-2009, tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì được ở mức cao gần 5%. Có được kết quả này là nhờ những cải cách tổng thể và bước đi thận trọng của nhiều quốc gia châu Á nói chung và Indonesia nói riêng sau bài học khủng hoảng tiền tệ khu vực năm 1997 – 1998.
Trong nỗ lực của Chính phủ Indonesia nhằm xử lý khủng hoảng tài chính đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế quốc gia này vào năm 1998, Chính phủ đã ban hành một loạt chính sách trong đó có việc thực hiện cơ chế bảo lãnh toàn bộ đối với ngân hàng. Cơ chế bảo lãnh toàn bộ đã thành công trong việc duy trì niềm tin của công chúng; tuy nhiên, chính sách này có nguy cơ gây ra rủi ro đạo đức đối với cả người gửi tiền và hệ thống ngân hàng. Vì vậy, Chính phủ Indonesia đã đưa ra lộ trình chuyển từ bảo hiểm toàn bộ sang bảo hiểm có giới hạn.
Một trong những vai trò trọng yếu của cơ quan BHTG (IDIC) trong mạng an toàn tài chính Indonesia là chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ. Nhìn lại lịch sử vào năm 1998, trong cơn bão khủng hoảng tài chính, Chính phủ Indonesia đã thành lập Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng (IBRA). Sau đó, khi hệ thống tài chính đã từng bước ổn định trở lại, đồng thời sau khi IDIC được thành lập, chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ từng bước được chuyển giao cho IDIC. Theo Luật BHTG Indonesia, IDIC có quyền bơm vốn vào ngân hàng gặp vấn đề, thay thế ban điều hành hiện tại nhằm thực hiện tái cơ cấu lại hoạt động của ngân hàng. Sau khi hoạt động của ngân hàng hồi phục, IDIC sẽ tìm nhà đầu tư để bán lại ngân hàng đó một cách êm thấm.
Khi ngân hàng gặp vấn đề, NHTW sẽ kiểm soát và giám sát đặc biệt ngân hàng đó trong thời gian tối đa 6 tháng. Nếu ngân hàng không có khả năng tự phục hồi, IDIC trên cơ sở ý kiến của NHTW và các thành viên khác trong Mạng an toàn tài chính, sẽ trả lời câu hỏi: Có cứu trợ hay không cứu trợ ngân hàng? Nếu phương án cứu trợ được tính toán và kết luận là có chi phí thấp hơn đồng thời cổ đông ngân hàng chấp thuận phương án này, IDIC sẽ thực hiện bơm vốn, nắm cổ phần, nắm quyền kiểm soát ngân hàng để từng bước phục hồi hoạt động. Trong trường hợp ngược lại, IDIC sẽ kiến nghị với NHTW thu hồi giấy phép hoạt động, đồng thời tiến hành thủ tục chi trả kịp thời cho người gửi tiền.
Những nỗ lực của Chính phủ Indonesia đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody's đã nâng xếp hạng tín nhiệm của Indonesia lên ngang hàng các nước thuộc nhóm BRICS (từ Ba1 lên Baa3).
Mặc dù vậy, lịch sử phát triển của các nền kinh tế và hệ thống tài chính đã chỉ rõ không có một mô hình chung áp dụng cho tất cả các quốc gia (no one size fits all). Trên cơ sở nguyên lý chung và có tham khảo kinh nghiệm quốc tế, từng quốc gia cần phải căn cứ vào đặc thù phát triển kinh tế - xã hội và bối cảnh thể chế kinh tế của mình để hiệu chỉnh và tìm hướng đi phù hợp.
TS. Trần Thị Hồng Hạnh |
TS. Trần Thị Hồng Hạnh, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:
Vì sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống các TCTD
Mặc dù có mô hình hoạt động, nguyên tắc hoạt động khác nhau nhưng có thể dễ dàng nhận thấy mục tiêu chung của BHTGVN và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) là góp phần đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của hệ thống các TCTD Việt Nam. Mục tiêu chung, nhất quán đó đã làm tiền đề cho sự phối hợp giữa hai cơ quan trong thời gian qua; đồng thời mở ra hướng hợp tác chặt chẽ hơn trong thời gian tới.
Đặc biệt, trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang triển khai Đề án tái cơ cấu các TCTD thì sự hợp tác giữa BHTG và VNBA có nhiều cơ hội mở rộng với các hoạt động thực chất hơn để đóng góp tích cực vào mục tiêu chung của toàn ngành: Thứ nhất, phối hợp thực hiện mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng: Tiếp tục phát huy và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa hai cơ quan trong việc tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật về BHTG. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong một nền kinh tế mở có độ liên kết chặt chẽ, một tổ chức đơn lẻ không thể duy trì ổn định tổng thể hệ thống. Sự phối hợp, hiệp lực, sử dụng triệt để ưu thế của nhiều tổ chức sẽ giúp duy trì sự ổn định tổng thể. Để tạo điều kiện cho sự phối hợp hoạt động có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng các chương trình phối hợp cụ thể hàng năm một cách thực chất, gắn với mục tiêu của cả hai đơn vị và của ngành Ngân hàng. Căn cứ chỉ đạo của Chính phủ, NHNN trong từng thời kỳ. Hai bên sẽ thống nhất nội dung các chương trình phối hợp. Thứ ba, BHTG và VNBA phối hợp, nghiên cứu triển khai thử nghiệm chương trình phổ biến kiến thức tài chính ngân hàng cho người dân.
Một nguyên tắc cơ bản, một khi người dân có hiểu biết hơn về hệ thống ngân hàng và biết cách sử dụng dịch vụ ngân hàng an toàn thì sẽ tin tưởng hơn, ít nhạy cảm hơn trước tin đồn và có xu hướng sử dụng các kênh ngân hàng chính thức hơn. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của ngành Ngân hàng, những sản phẩm dịch vụ tài chính phức tạp đã xuất hiện khiến ngay cả những người dân ở đô thị cũng gặp khó khăn trong việc sử dụng các dịch vụ này.
Chính vì vậy, nhu cầu cấp bách hiện nay tại Việt Nam là nâng cao hiểu biết về tài chính của người dân nói chung và người sử dụng dịch vụ tài chính nói riêng thông qua các chương trình phổ biến kiến thức có quy mô rộng lớn toàn quốc gia. Việc BHTG và VNBA tập trung nguồn lực phối hợp nghiên cứu xây dựng một chương trình phổ biến kiến thức tài chính - ngân hàng tổng thể để triển khai sẽ có ý nghĩa lớn đối với người dân, người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính - ngân hàng và khẳng định sự hợp tác chặt chẽ có hiệu quả giữa hai tổ chức.
Nguồn: Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam (tính đến cuối tháng 9/2014)
Ông Phạm Văn Tấn |
Ông Phạm Văn Tấn, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An:
Phải khuyến khích được cả người dân và TCTD tham gia BHTG
Sự ra đời của Luật BHTG năm 2012, hoạt động của BHTG đã được củng cố với nền tảng pháp lý vững chắc. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng chính sách BHTG thời gian qua còn bộc lộ một số bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của người dân, cũng như của các tổ chức tham gia BHTG.
Thứ nhất, hạn mức chi trả BHTG có ý nghĩa rất quan trọng, là yếu tố thể hiện cam kết của Chính phủ đối với việc bảo vệ người gửi tiền thông qua tổ chức BHTG. Mặt khác, nó còn là động lực thu hút nguồn tiền gửi của người dân vào các TCTD, là vấn đề tác động đến niềm tin của người gửi tiền.
Hiện nay theo Luật BHTG, hạn mức chi trả BHTG không còn đóng khung một mức cụ thể mà giao cho Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức chi trả BHTG trong từng thời kỳ cụ thể theo đề nghị của NHNN. Tuy nhiên, hiện BHTG vẫn áp dụng hạn mức trả tiền bảo hiểm tối đa cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia BHTG là 50 triệu đồng. Hạn mức này đã được áp dụng từ năm 2005, hiện không còn phù hợp với thực tế.
Do vậy, theo chúng tôi vấn đề đặt ra trong thời gian tới là phải xây dựng hạn mức chi trả BHTG phải đảm bảo tiêu chí: Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm phải đạt mức tương ứng để đủ điều kiện bảo hiểm toàn bộ cho phần lớn người gửi tiền, duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống. Trong những trường hợp đặc biệt, hạn mức chi trả BHTG có thể được điều chỉnh cao lên gấp nhiều lần, thậm chí bảo hiểm toàn bộ nhằm trấn an người gửi tiền. Tuy nhiên, hạn mức cũng phải phù hợp để tránh rủi ro đạo đức và rủi ro kinh doanh từ chính các TCTD.
Vấn đề quan trọng thứ hai, là chính sách thu phí BHTG: Hiện, trên thế giới đang tồn tại hai phương pháp thu phí chủ yếu: Đó là phương pháp thu phí đồng hạng và phương pháp thu phí theo mức độ rủi ro. Đối với Việt Nam, kể từ khi thành lập đến nay, BHTG vẫn đang thực hiện cơ chế thu phí đồng hạng với tỷ lệ 0,15%/năm trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm áp dụng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG.
Phương pháp thu phí đồng hạng bộc lộ một số bất cập, như: mang tính “cào bằng”, không khuyến khích, thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức nhận tiền gửi, không đảm bảo nguyên tắc thị trường (TCTD nào rủi ro cao thì phải đóng phí cao và ngược lại). Điều đó sẽ dẫn tới hệ quả không đảm bảo công bằng giữa các TCTD, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD và không tạo động lực cho các TCTD cố gắng nỗ lực cải thiện hoạt động và nâng cao tính minh bạch cho tổ chức và tăng cường khả năng thích nghi cũng như cạnh tranh trên thị trường…
Luật BHTG năm 2012 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng một cơ chế thu phí căn cứ vào mức độ rủi ro của TCTD. Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế thu phí BHTG theo mức độ rủi ro không hề đơn giản, đòi hỏi phải xác định được mức độ rủi ro của các TCTD (hay phải có cơ chế đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với các TCTD). Để làm được điều đó đòi hỏi phải có lộ trình cụ thể, rõ ràng và lựa chọn phương pháp phân loại, đánh giá chất lượng hoạt động của TCTD phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
Ông Đoàn Thái Sơn |
Ông Đoàn Thái Sơn – Vụ trưởng Vụ Pháp chế NHNN:
Sẽ có thêm văn bản hướng dẫn để BHTG triển khai Luật tốt hơn
Dự luật BHTG hiện đang quan tâm nhiều đến hai vấn đề: Mức phí và hạn mức chi trả BHTG. Cùng với hai vấn đề này, tôi cho rằng còn một số vấn đề mấu chốt khác cũng cần quan tâm như: Vấn đề hỗ trợ tài chính đối với tổ chức BHTG trong trường hợp nguồn vốn của tổ chức BHTG không đủ để trả tiền bảo hiểm. Luật BHTG cho phép BHTGVN được tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ NSNN theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của tổ chức BHTG tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm.
Bên cạnh đó, Luật BHTG cũng cho phép: Tổ chức BHTG được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Tôi cho rằng, đây là các hình thức đầu tư an toàn, vừa tránh được rủi ro hao tổn quỹ vừa đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTG. Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng khác nữa như: chế độ thông tin, báo cáo về BHTG.
Theo tôi, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức BHTG phải có được những thông tin cần thiết về các tổ chức tham gia BHTG. Do đó, Luật BHTG quy định BHTGVN được phép tiếp cận dữ liệu thông tin của NHNN về tổ chức tham gia BHTG để đảm bảo cho BHTG có thể khai thác được đầy đủ các thông tin cần thiết của các tổ chức tham gia BHTG phục vụ cho hoạt động BHTG của mình.
Đồng thời, để đảm bảo việc quản lý, giám sát hoạt động và đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động BHTG, Luật BHTG cũng quy định trách nhiệm báo cáo NHNN và trách nhiệm công bố thông tin của BHTG. Hiện tại, căn cứ theo nhu cầu thực tiễn của hoạt động BHTG, NHNN đang khẩn trương xây dựng văn bản hướng dẫn về hoạt động báo cáo, cung cấp thông tin, đảm bảo kịp thời triển khai thực hiện quy định của Luật BHTG về thông tin, báo cáo (dự kiến ban hành trong tháng 12/2014).