Áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng theo đà phục hồi kinh tế
Trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XV mới đây, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là vốn đầu tư dựa rất lớn vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Hiện nay, dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức là 124% GDP và theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì Việt Nam là nước có tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Điều này có nguy cơ rủi ro, do đó công cụ cấp hạn mức tín dụng vừa qua rất hiệu quả, giúp chặn được các cuộc đua lãi suất.
Theo Thống đốc, khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng hệ thống ngân hàng thì mỗi khi có các cú sốc như Covid-19, biến động của tình hình kinh tế thế giới, doanh nghiệp và người dân khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh lập tức sẽ ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng. Một khi hệ thống ngân hàng mất khả năng chi trả... thì sẽ hệ lụy đến cả nền kinh tế.
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng được NHNN áp dụng từ năm 2011 và thực tế chứng minh đây là một biện pháp hiệu quả trong tổ chức điều hành, nhờ đó đã đưa thị trường tiền tệ tín dụng ổn định trở lại.
"Trước đây, trong thời gian không có kiểm soát về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng,các ngân hàng, các TCTD tăng trưởng tín dụng rất cao. Có nhiều năm, tăng trưởng tín dụng trên 30%/năm, thậm chí cá biệt có những năm tăng trưởng toàn hệ thống lên đến 53,8%, dẫn đếncuộc đua lãi suất để huy động được nguồn tiền để cho vay... "-Thống đốc cho biết.
Theo đánh giá của Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), năm 2022, áp lực lạm phát trong nước tăng nhanh do yếu tố chi phí đẩy và tác động trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng từ năm 2020. Điều này tạo thách thức lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, trong đó có điều hành tín dụng để vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế, nhưng phải đảm bảo kiểm soát lạm phát, đảm bảo hoạt động của các TCTD an toàn.
Hiện nay, áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao theo đà phục hồi kinh tế, trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực rủi ro lạm phát gia tăng. Xu hướng tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Do đó, viêc kiểm soát tăng trưởng tín dụng là cần thiết, phù hợp đặc thù kinh tế Việt Nam.
Bàn về hạn mức tín dụng, chuyên gia tài chính Lê Hoài Ân (thành viên Hiệp hội CFA toàn cầu) cũng cho rằng, với nền kinh tế Việt Nam, hệ thống ngân hàng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bơm vốn cho nền kinh tế. Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, việc không quản lý được lạm phát sẽ tạo ra nhiều bất ổn. Chuyên gia Lê Hoài Ân nhận định, từ sau khi ổn định hệ thống tiền tệ với chính sách room tín dụng, NHNN đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô khi lạm phát được quản lý tốt, tỷ giá biến động trong biên độ hẹp, từ đó góp phần gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam khi niềm tin vào tiền đồng đối với nhà đầu tư nước ngoài gia tăng.
“Một công cụ, tuy không phải là hiệu quả nhất, nhưng nếu đã, đang vận hành tốt thì chúng ta nên thận trọng khi suy nghĩ về sự thay đổi, đặc biệt là tính thời điểm. Những công cụ hợp lý hơn chưa hẳn đã hiệu quả hơn, vì không chắc sẽ phù hợp với đặc thù của nền kinh tế” - ông Lê Hoài Ân nêu quan điểm.
Bám sát diễn biến lạm phát, tăng trưởng GDP, tình hình kinh tế trong, ngoài nước
Theo NHNN, đến ngày 15/8/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,45 triệu tỷ đồng, tăng 9,62% (cùng kỳ năm 2021 tăng 6,68%) do cầu tín dụng tăng ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến tích cực hơn của nền kinh tế so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, dư địa để tăng trưởng tín dụng hiện nay vẫn còn so với mức NHNN đã thông báo cho các TCTD và chỉ tiêu tín dụng định hướng.
Tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/1/2022, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Chỉ tiêu tăng trưởng định hướng 14% được NHNN xây dựng trên cơ sở: Tình hình tăng trưởng tín dụng thực tế của năm 2021 (tăng 13,61%, cao hơn mức 12,17% của năm 2020); Mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5%, lạm phát khoảng 4% và dự toán Ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 34/2021/QH15.
Trong quá trình điều hành chỉ tiêu 14%, NHNN cập nhật và bám sát diễn biến lạm phát, tăng trưởng GDP, tình hình kinh tế trong, ngoài nước, tiến độ xây dựng, thực hiện Đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD và triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ để thường xuyên cập nhật các dự báo kinh tế vĩ mô, rà soát điều chỉnh mô hình, đảm bảo phù hợp với tình hình diễn biến thực tiễn của thị trường.
Căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở diễn biến lạm phát, tình hình kinh tế trong, ngoài nước, NHNN đã phân bổ tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho từng TCTD trên cơ sở kết quả xếp hạng từng TCTD theo các tiêu chí và chấm điểm quy định tại Thông tư 52/2018/TT-NHNN (trong đó có một số tiêu chí như chất lượng tài sản, quản trị điều hành, kếtquả hoạt động kinh doanh; khả năng thanh khoản ...).
Bên cạnh đó, NHNN xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, NHNN như tiêu chí giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, tiêu chí tín dụng tập trung vào lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, tiêu chí TCTD tham gia hỗ trợ xử lý các ngân hàng yếu kém… để làm cơ sở điều chỉnh tăng/giảm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD trong quá trình phân bổ/điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD. Các tiêu chí này được NHNN xem xét theo nguyên tắc chung và được Ban lãnh đạo NHNN thông nhất trên cơ sở tham mưu của các đơn vị chức năng. Chủ trương được công bố công khai ngay từ đầu năm tại Chỉ thị số 01 hàng năm về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng.
Bên cạnh công cụ hạn mức tín dụng, NHNN cũng sử dụng các công cụ điều hành khác nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần ổn định vĩ mô. TS. Trần Du Lịch – chuyên gia kinh tế - nhìn nhận, hiện NHNN đang có lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, đây là điều cần phải làm để bảo đảm an toàn, giảm dần gánh nặng vốn trung và dài hạn của NHTM, san sẻ cho các kênh huy động trực tiếp, trong đó trái phiếu doanh nghiệp là một kênh. Còn nếu vẫn để NHTM đảm đương vai trò cả vốn ngắn hạn, trung và dài hạn, đồng nghĩa với việc ngân hàng cứ chạy theo tín dụng và tiếp tục “nuôi rủi ro”.
Theo NHNN, phương châm điều hành tín dụng là tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Theo đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD thực hiện tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN giao từ đầu năm nhằm đảm bảo kiểm soát tín dụng toàn hệ thống theo mục tiêu định hướng trong điều kiện tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, cân nhắc yếu tố rủi ro lạm phát và định hướng kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống; qua đó góp phần hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và tình hình thị trường để có giải pháp điều hành phù hợp.