Luật BHTG được thông qua khẳng định được vị thế và vai trò của tổ chức BHTG trong hệ thống các cơ quan của Mạng an toàn tài chính quốc gia, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, góp phần an toàn lành mạnh hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn mới và đây cũng là cơ sở để BHTGVN ngày càng phát triển.
Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của BHTG
Mục tiêu của hoạt động BHTG đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật trước đây và một lần nữa được khẳng định chính thức tại Luật BHTG: “Hoạt động BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng”[1]. Qui định này hoàn toàn phù hợp với khuyến nghị của Bộ nguyên tắc cơ bản để Phát triển hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả [2] của IADI (Nguyên tắc 1 – Xác định mục tiêu) là mục tiêu chính sách công cần được quy định rõ ràng và chính thức tại các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Nguyên tắc hoạt động của BHTG vẫn tiếp tục kế thừa từ cơ sở pháp lý trước đây khi yêu cầu tham gia bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân. Điều này cũng phù hợp với Bộ nguyên tắc cơ bản (Nguyên tắc 8 – tổ chức tham gia BHTG và phạm vi bảo hiểm), là cơ sở để tập trung nguồn lực bảo vệ người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ, và hơn thế, hỗ trợ quá trình giám sát thường xuyên các tổ chức nhận tiền gửi, đảm bảo các tổ chức này tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.
Hoạt động BHTG phải công khai minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. So với Nghị định 89 và Nghị định 109 về bảo hiểm tiền gửi được ban hành trước đây, Luật BHTG đã tách bạch và quy định rõ ràng hơn nguyên tắc này.
Về chủ thể được BHTG
Với mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, lẻ, thiếu thông tin đồng thời cũng để khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật về chủ thể được BHTG, Luật BHTG quy định không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Vì tiền gửi của các tổ chức mang tình luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích tiền gửi tiết kiệm. Và thực tế trong hơn 10 năm qua, số tiền gửi của các đối tượng này không lớn mà chủ yếu là tiền gửi của cá nhân. Do đó, Luật BHTG quy định chủ thể được BHTG là cá nhân (Điều 18).
Tiền gửi được bảo hiểm
So với cơ sở pháp lý trước đây, Luật BHTG tiếp tục chính sách bảo hiểm cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân dưới nhiều hình thức, tuy nhiên không tiếp tục bảo hiểm cho tiền gửi hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Mức sở hữu vốn tại các tổ chức tín dụng của cá nhân không được BHTG giảm từ 10% (Nghị định 89/1999/NĐ-CP) xuống 5%. Điều chỉnh này phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội cũng như sự thay đổi trong quy mô vốn của các tổ chức tín dụng hiện nay.
Hạn mức BHTG
Luật quy định “Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ”[3] bởi hạn mức BHTG là yếu tố cần được điều chỉnh khá linh hoạt phù hợp với từng thời, kỳ đặc biệt là những giai đoạn xảy ra khủng hoảng. Hiện nay, hạn mức BHTG được áp dụng là 50 triệu đồng theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP đã không còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam để có thể bảo vệ tốt cho người gửi tiền do tỉ lệ lạm phát cao (từ 2005 đến 2010 là 150%), thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng khá nhanh (gấp 2,2 lần năm 2005). Điều này đòi hỏi Chính phủ cần có những điều chỉnh phù hợp và kịp thời nhằm bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, tránh gây ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Thời điểm trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền
Việc xác định thời điểm trả tiền bảo hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Nhà nước đối với người dân trong việc đảm bảo chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức BHTG cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt tại các tổ chức tham gia BHTG, qua đó giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Do vậy, để đảm bảo đạt mục tiêu của BHTG và phù hợp quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật BHTG quy định rõ thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền cho người gửi tiền, cụ thể là: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền.” (Điều 22).
Quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền được bảo hiểm
Đây là một điểm mới của Luật BHTG so với cơ sở pháp lý trước đây. Nếu như trong cơ sở pháp lý trước đây quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền được bảo hiểm chưa được qui định một cách trực tiếp thì trong Luật vừa được thông qua, quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền đã được qui định rõ ràng thành một điều riêng (Điều 11). Cụ thể, người được BHTG có quyền được bảo hiểm số tiền gửi của mình tại tổ chức tham gia BHTG; được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn; được yêu cầu tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về BHTG; được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHTG theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm là cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tiền gửi theo yêu cầu của tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG khi thực hiện thủ tục trả tiền bảo hiểm.
Phí BHTG
Hiện nay, tại Việt Nam, phí BHTG được áp dụng là mức phí đồng hạng (0,15% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm). Việc áp dụng mức phí Bảo hiểm tiền gửi đồng hạng chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu triển khai hệ thống Bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức BHTG chưa có đủ các nguồn lực cần thiết vì hệ thống phí bảo hiểm đồng hạng dễ quản lý, dễ tính và thu phí. Tuy nhiên, hạn chế của việc áp dụng mức phí đồng hạng là không công bằng, tiềm ẩn rủi ro đạo đức và hạn chế sự cạnh tranh giữa các tổ chức tham gia BHTG trong việc nâng cao chất lượng hoạt động để được hưởng mức phí thấp. Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam cả về số lượng và trình độ trong những năm vừa qua, áp dụng hệ thống phí đồng hạng không còn phù hợp với thực tiễn.
Luật BHTG quy định: “Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ vào khung phí BHTG, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này” [4]. Như vậy, qui định về phí BHTG của Luật BHTG mới thông qua đã kế thừa qui định tiến bộ về phí BHTG của Nghị định 109/2005/NĐ-CP làm nền tảng cho việc áp dụng hệ thống phí điều chỉnh theo rủi ro trong thời gian tới. Quy định này cũng phù hợp với xu hướng quốc tế là chuyển từ mô hình phí đồng hạng sang áp dụng mô hình phí theo rủi ro.
Về mô hình tổ chức và quản lý Nhà nước về tổ chức BHTG
Về bản chất, tổ chức BHTG là định chế tài chính công với hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng - bảo hiểm, có nhiệm vụ góp phần bảo đảm sự ổn định của thị trường tài chính nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Trên thực tế, từ năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập BHTGVN với tư cách là một tổ chức tài chính nhà nước, không phải là một đơn vị trực thuộc cơ cấu, tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chưa giao cụ thể cơ quan thay mặt Chính phủ quản lý nhà nước về BHTG. Vì vậy, để bảo đảm sự phù hợp với bản chất của tổ chức BHTG, quy định của pháp luật hiện hành và xác định rõ địa vị pháp lý của tổ chức BHTG, Luật BHTG quy định tổ chức BHTG do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ (Điều 29).
Tuy nhiên, để tổ chức BHTG có tính độc lập tương đối trong tổ chức và hoạt động, chịu sự quản lý Nhà nước của cơ quan được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền. Do vậy, Luật BHTG đã xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về BHTG là Ngân hàng Nhà nước (Khoản 2 Điều 8), đồng thời xác định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về BHTG của Ngân hàng Nhà nước (Điều 9), Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm thực hiện chức năng thanh tra về BHTG (Điều 35). Ngoài ra, BHTGVN chịu sự quản lý Nhà nước của các bô, ngành liên quan đối với các lĩnh vực thuộc phạm quản lý như: Bộ Tài chính, Bộ Lao động ...
Về mô hình hoạt động của tổ chức BHTG
Kế thừa các quy định hiện hành, bên cạnh việc ghi nhận đầy đủ chức năng giám sát, kiểm tra và cảnh báo sớm của tổ chức BHTG, Luật BHTG đã quy định cụ thể hơn tổ chức BHTG được quyền theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về BHTG (Khoản 9 Điều 13); có thể tham gia vào quá trình giám sát từ xa trên cơ sở thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng (Khoản 10 Điều 13). Mặt khác, Luật BHTG quy định tổ chức BHTG tham gia quá trình kiểm soát đặc biệt, tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG (tại Khoản 13 Điều 13) theo quy định của Chính phủ, do vậy cũng đảm bảo cho BHTGVN thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và xác định rõ giới hạn của BHTGVN trong việc bảo đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
Mặt khác, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức BHTG phải được chia sẻ, cung cấp thông tin cần thiết về các tổ chức tham gia BHTG. Luật BHTG dã quy định Chương V về Hoạt động thông tin, báo cáo, theo đó quy định cụ thể trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức BHTG, trách nhiệm cung cấp thông tin của Ngân hàng Nhà nước.
Về hoạt động đầu tư, Luật BHTG chỉ cho phép: “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước.” (Điều 31) mà không cho phép tổ chức BHTG được mở tài khoản và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng Nhà nước như quy định pháp luật hiện hành về BHTG.
Quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG
Sự ra đời của Luật BHTG có ý nghĩa quan trọng đối với tổ chức BHTG, nâng cao địa vị pháp lý, là cơ sở đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ phù hợp với các mục tiêu chính sách công và phù hợp với bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả “Tổ chức BHTG cần độc lập về mặt hoạt động, minh bạch, có trách nhiệm giải trình và không bị tác động quá mức bởi hệ thống chính trị và khu vực tài chính ngân hàng.” (Nguyên tắc 5 về Quản trị - Bộ Nguyên tắc cơ bản).
Luật BHTG đã kế thừa cơ sở pháp lý trước đây, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế về đảm bảo tính độc lập tương đối của tổ chức BHTG, thể hiện trên một số nội dung chính như: i) về tổ chức (do Thủ tướng Chính phủ thành lập, là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận) ii) về tài chính (được cấp vốn điều lệ, hạch toán độc lập, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, hoạt động đầu tư); iii) về triển khai các nhiệm vụ, nghiệp vụ; iv) chủ động trong xử lý những trường hợp chi trả bảo hiểm.
Luật BHTG giao cho tổ chức BHTG các chức năng, nhiệm vụ phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống ngân hàng và điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay. Ngoài nhiệm vụ tính, thu phí và chi trả bảo hiểm, tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG, Luật BHTG giao tổ chức BHTG một số chức năng quan trọng như theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG; tổng hợp phân tích và xử lý thông tin nhằm phát hiện và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng; và tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tham gia BHTG[5].
Quan hệ giữa tổ chức BHTG và cơ quan giám sát
Luật BHTG quy định về nguyên tắc mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và các cơ quan giám sát. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý về BHTG; Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về BHTG; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về BHTG; Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về BHTG tại địa phương. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả thi hành Luật và đảm bảo an toàn, lành mạnh hệ thống ngân hàng, mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài chính cần được quy định rõ ràng trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Luật BHTG được Quốc hội thông qua là dấu mốc quan trọng cho định hướng phát triển hoạt động BHTG tại Việt Nam, tạo nền tảng pháp lý cơ bản cho việc triển khai chính sách BHTG trong thời gian tới. Để Luật thực sự đi vào cuộc sống, các cơ quan có liên quan cần xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đầy đủ và chi tiết nhằm đảm bảo mục tiêu của chính sách BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
[1] Điều 1, Luật Bảo hiểm tiền gửi
[2] Sau đây gọi tắt là Bộ nguyên tắc cơ bản
[3] Điều 24, Luật Bảo hiểm tiền gửi
[4] Khoản 1, 2 Điều 20 Luật Bảo hiểm tiền gửi
[5] Điều 13, Luật Bảo hiểm tiền gửi