Trên thực tế, quá trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD được tiến hành khi các quốc gia phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ nhằm thực hiện những cải tiến, đổi mới phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, đề ra những chính sách phát triển mới hiệu quả hơn cho hệ thống ngân hàng.
Tại Việt Nam, quá trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD đang được triển khai mạnh mẽ thông qua việc Chính phủ ban hành đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” với những mục tiêu cụ thể sau: cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống ngân hàng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống ngân hàng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc. Theo đó, tổ chức tín dụng sẽ có cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình, có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế, xác định việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan. Tính đến nay đã có một sô TCTD tự nguyện sáp nhập, hợp nhất; dự kiến sắp tới NHNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc ngân hàng với mục tiêu tăng cường năng lực tài chính, khả năng tuân thủ và minh bạch của hệ thống. Trong tương lai gần, thị trường sẽ tiếp tục chứng kiến nhiều thương vụ sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng với sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình triển khai, việc tái cấu trúc hệ thống các TCTD phải đối mặt với nhiều thách thức, cụ thể: nguồn lực của Nhà nước hạn chế, dự trữ ngoại hối nhỏ; thâm hụt ngân sách lớn, nợ công cao và có chiều hướng tăng nhanh, chính sách tiền tệ chặt chẽ để kiềm chế lạm phát; hành lang pháp lý còn nhiều hạn chế…Ngoài ra, tái cấu trúc có thể dẫn tới nhiều xáo trộn trên thị trường, đặc biệt, tâm lý và niềm tin của người gửi tiền rất dễ bị lung lay trước nhiều luồng thông tin trái chiều, chẳng hạn lo ngại rằng tiền gửi khi một số ngân hàng được sáp nhập hay mua lại v.v. Chính vì vậy, hoạt động tái cấu trúc hệ thống các TCTD cần gắn với việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong đó gắn với việc hoàn thiện, triển khai hiệu quả chính sách BHTG, nâng cao năng lưc hoạt động của tổ chức BHTGVN.
Được Chính phủ thành lập từ năm 1999, với vai trò là tổ chức chuyên nghiệp đóng vai trò bảo vệ người gửi tiền, góp phần duy trì phát triển lành mạnh hệ thống tài chính, hơn 10 năm qua, BHTGVN đã thực hiện tốt chức năng bảo vệ người gửi tiền góp phần nâng cao niềm tin công chúng.
Hoạt động của tổ chức BHTGVN còn có nền tảng pháp lý vững chắc là Luật BHTG vừa được Quốc hội ban hành theo đó người gửi tiền được bảo vệ tốt hơn và tạo hành lang pháp lý để tổ chức BHTG thực hiện tốt hơn nhiệm vụ giám sát thị trường tài chính. Việc triển khai hiệu quả Luật BHTG sẽ góp phần vào việc tái cấu trúc hệ thống các TCTD.
Tái cấu trúc hệ thống các TCTD có thể dẫn đến vấn đề niềm tin công chúng bị suy giảm, vì người dân thường nghĩ ngay tới việc ngân hàng đang lâm vào tình trạng phá sản hay chuẩn bị đổ vỡ nên mới tiến hành tái cấu trúc. Kinh nghiệm cho thấy để trấn an tâm lý trên và lấy lại niềm tin từ người gửi tiền; bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền, song song với tăng cường giám sát, cảnh báo sớm nhằm giảm rủi ro thiệt hại của người gửi tiền; rất nhiều tổ chức BHTG trên thế giới thực hiện đổi mới chính sách bảo hiểm tiền gửi bằng việc nâng cao hạn mức chi trả hay bảo hiểm toàn bộ số tiền gửi, vì đây là yếu tố trực tiếp tác động đến quyền lợi cũng như niềm tin của người gửi tiền. Đây cũng được coi là một giải pháp hữu hiệu góp phần ngăn chặn kịp thời nguy cơ rút tiền ồ ạt, đồng thời đối phó với những tác động tiêu cực mà khủng hoảng tài chính mang lại. Đồng thời, nhiều quốc gia cũng thực hiện đổi mới hệ thống giám sát nhằm tăng cường sự phối kết hợp, phân công trách nhiệm minh bạch để tăng hiệu quả của công tác giám sát.
Chính sách BHTG tại Việt Nam trong thời gian vừa qua đã bộc lộ một số bất cập như hạn mức chi trả thấp, áp dụng mức phí đồng hạng, vai trò BHTG trong quá trình giám sát sát, xử lý đổ vỡ còn mờ nhạt. Luật BHTG được ban hành đã khắc phục những điểm hạn chế đó, tạo hành lang pháp lý đầy đủ hơn để tổ chức BHTGVN triển khai hiệu quả chính sách BHTG.
Để Luật đi vào cuộc sống, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng tiền hành xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành trong đó tập trung vào một số nội dung như quy định hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm không quá cao để gây ra rủi ro đạo đức, nhưng cũng không quá thấp để ảnh hưởng đến niềm tin của dân và cần tính đến yếu tố trượt giá, bối cảnh thị trường trong thời kỳ ổn định cũng như lường trước những kịch bản xấu của thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Khi xây dựng hạn mức chi trả, chúng ta cũng không nên quá phụ thuộc vào nguồn quỹ của BHTGVN vì bản chất vấn đề nguồn quỹ BHTG là không hạn chế. Nếu trong trường hợp thiếu thì các cơ quan chức năng có cơ chế để bổ sung nguồn quỹ. Về vấn đề phí, cần quy định cụ thể hạn mức phí được áp dụng cho từng nhóm tổ chức tín dụng trên cơ sở xếp hạng của cơ quan chức năng nhưng cũng phải có quy định chặt chẽ về quy định bảo mật thông tin vì hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cảm. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ vai trò, trách nhiệm của tổ chức BHTG trong việc giám sát thị trường tài chính cùng với các cơ quan khác như cơ chế tiếp cận, chia sẻ, xử lý thông tin.Hoặc liên quan đến vấn đề xử lý đổ vỡ, các văn bản dưới Luật cần cụ thể hóa vai trò của BHTGVN tham gia quá trình xử lý thanh lý tổ chức tín dụng đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, giảm chi phí trong việc xử lý đổ vỡ tín dụng.
Bên cạnh đó, tổ chức BHTGVN cần nâng cao hơn nữa năng lực đặc biệt là chú trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực để BHTGVN có thể thực hiện tốt chính sách BHTG bảo vệ người gửi tiền và tham gia hiệu quả có đóng góp tích cực vào việc giám sát thị trường tài chính góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Để nâng cao niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, BHTGVN cần chú trọng đến công tác tuyên truyền để mọi tầng lớp nhân dân hiểu biết về chính sách BHTG. Khi họ có hiểu biết đầy đủ sẽ hạn chế được sự rút tiền hàng loạt hay có những phản ứng tiêu cực với thị trường.
Trước bối cảnh nền kinh tế thế giới vẫn còn những diễn biến phức tạp tác động đến kinh tế trong nước, chủ trương tái cấu trúc tổ chức tín dụng đang được thực hiện mạnh mẽ, vấn đề củng cố và nâng cao niềm tin công chúng đối với hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng. Để thực hiện được điều đó, việc hoàn thiện, hành lang pháp lý về bảo hiểm tiền gửi đáp ứng được thực tiễn là vấn đề mấu chốt để tổ chức BHTGVN triển khai hiệu quả chính sách BHTG tại Việt Nam.