PV: Thưa ông, hạn mức trả tiền bảo hiểm được công chúng rất quan tâm và có ảnh hưởng lớn đến hành vi của người gửi tiền. Xin ông cho biết, vấn đề này Luật BHTG quy định như thế nào? Và hiện nay triển khai ra sao?
TS. Bùi Khắc Sơn: Điều 24, Luật BHTG qui định “Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ”. Như vậy, luật không quy định hạn mức bằng số tuyệt đối. Nếu qui định cụ thể hạn mức trả tiền bảo hiểm trong Luật BHTG thì việc thay đổi sẽ rất phức tạp; hơn nữa qui định mới sẽ cho phép hạn mức được điều chỉnh linh hoạt theo từng thời kỳ để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cũng như các tình huống đặc biệt như xảy ra khủng hoảng….
Mặc dù Luật BHTG đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2013 nhưng đến nay Thủ tướng Chính phủ chưa có quyết định về hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định của Luật BHTG. Khi chưa có quyết định mới, hạn mức trả tiền bảo hiểm được áp dụng ở mức 50 triệu đồng như quy định hiện hành.
PV: Xin ông cho biết hạn mức trả tiền bảo hiểm được tính toán dựa trên những cơ sở nào?
TS. Bùi Khắc Sơn: Việc tính toán hạn mức trả tiền bảo hiểm phải tuân thủ 2 mục tiêu cơ bản của chính sách BHTG là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, thiếu thông tin về hoạt động ngân hàng và góp phần đảm bảo ổn định tài chính. Đồng thời nó cần bảo đảm các nguyên tắc: i) hạn mức cần đủ cao để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng; ii) hạn mức cần đủ thấp để những người gửi tiền qui mô lớn không chủ quan với các hoạt động ngân hàng thiếu an toàn và rủi ro, qua đó, kiểm soát và điều tiết rủi ro đạo đức, tránh tình trạng mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Việc tính toán hạn mức cũng cần xem xét các yếu tố có liên quan bao gồm: i) GDP bình quân đầu người và các yếu tố liên quan như lạm phát, tỉ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; ii) tỷ lệ % người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền; iii) tỷ lệ % giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ trên tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm; iv) mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế.
Trong giai đoạn kinh tế thông thường, hạn mức thường được xác định bằng từ 2 đến 5 lần GDP/đầu người, bảo vệ toàn bộ được trên 80% người gửi tiền và khoảng 30% tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm. Các quốc gia với hệ thống ngân hàng hoạt động rủi ro cao có xu hướng duy trì hạn mức trả tiền bảo hiểm cao hơn nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền. Hạn mức cao còn có thể là một chọn lựa chính sách khi các cơ quan quản lý thực hiện cải cách lĩnh vực tài chính, thực hiện những qui tắc và qui định an toàn mới, hoặc là các yếu tố khác.
PV: Trên thế giới, ở thời kỳ khủng hoảng, khi niềm tin vào hệ thống ngân hàng bị suy giảm, các nước đều đồng loạt nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm như một sự phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Vì sao như vậy và ông có kiến nghị gì dưới góc độ là cơ quan triển khai chính sách BHTG?
TS. Bùi Khắc Sơn: Trong giai đoạn khủng hoảng, hầu hết các nước đều lựa chọn tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm hoặc bảo đảm toàn bộ vì một số lý do sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn khủng hoảng, sự thay đổi của tỉ lệ lạm phát ảnh hưởng đến giá trị thực của hạn mức và khiến nó không còn phù hợp với mục tiêu chính sách công.
Thứ hai, việc tăng hạn mức sẽ giúp củng cố niềm tin của người gửi tiền vào các ngân hàng, qua đó ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt và tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng, tránh làm trầm trọng thêm khủng hoảng.
Thứ ba, mục tiêu quan trọng nhất của BHTG cũng như chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm là bảo vệ số đông người gửi tiền. Bởi thế, trong thời kỳ khủng hoảng, nhiều quốc gia áp dụng bảo đảm toàn bộ để có thể bảo vệ người gửi tiền tốt nhất.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua đã khiến cho 48 nước phải tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm (khảo sát của Hiệp hội BHTG quốc tế và Quỹ Tiền tệ quốc tế năm 2010), tiêu biểu như Mỹ đã tăng từ 100.000 USD lên 250.000 USD, EU từ 50.000 Euro lên 100.000 Euro, trong đó 19 nước áp dụng bảo đảm toàn bộ (Đức, Áo, Thái Lan, Singapore…). Qua đó, có thể thấy, cùng với các biện pháp khác như mở rộng phạm vi bảo hiểm, đẩy nhanh quá trình chi trả hay hỗ trợ thanh khoản, tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm là biện pháp ứng phó khủng hoảng một cách hiệu quả mà các tổ chức BHTG đã sử dụng rộng rãi trên thế giới. Để có thể điều chỉnh hạn mức một cách linh hoạt, cơ sở pháp lý về BHTG cần phải có những quy định cụ thể về thẩm quyền và cách thức điều chỉnh hạn mức.
Dưới góc độ là cơ quan triển khai chính sách BHTG, chúng tôi đã có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này và đã có kiến nghị chính thức đối với các cơ quan có thẩm quyền. Hạn mức trả tiền bảo hiểm cần được điều chỉnh kịp thời để đáp ứng mục tiêu bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
PV: Thực tế cho thấy, hạn mức trả tiền bảo hiểm 50 triệu đồng được áp dụng từ năm 2005 đến nay đã lạc hậu. BHTGVN đã đề xuất và tham mưu như thế nào cho cơ quan chức năng trong việc điều chỉnh hạn mức bảo hiểm, thưa ông?
TS. Bùi Khắc Sơn: Hạn mức 50 triệu đồng được áp dụng từ năm 2005 và đến nay có thể thấy hạn mức này không còn phù hợp bởi những lý do sau:
Thứ nhất, trong những năm gần đây tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều biến động. GDP bình quân đầu người tăng nhanh (7,06%/năm) trong giai đoạn 2005-2011. Năm 2011, GDP bình quân đầu người gấp hơn 3 lần so với 2002, và gấp hơn 2 lần so với 2005. Do đó, hạn mức trả tiền bảo hiểm/GDP bình quân đầu người ngày càng giảm, đến năm 2011 tỉ lệ này chỉ còn 1,73 lần. Ngoài ra, từ năm 2005 đến nay, lạm phát ở mức bình quân 11,62%/năm (đặc biệt là lạm phát năm 2008 – 19,89% và năm 2011 – 18,13%) và biến động tỷ giá ở mức gần 30% khiến giá trị thực của hạn mức trả tiền bảo hiểm thấp đi đáng kể. Vào thời điểm năm 2005, hạn mức trả tiền bảo hiểm được xác định bằng 3.100 USD. Theo tỷ giá hiện tại, hạn mức trả tiền bảo hiểm chỉ bằng 2.400 USD.
Đồng thời, sau cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008 – 2010, nền kinh tế suy giảm và gặp nhiều khó khăn như mất cân đối kinh tế vĩ mô và lạm phát cao, hệ thống ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề và đang đứng trước yêu cầu cần phải giải quyết vấn đề nợ xấu và tái cấu trúc. Trong bối cảnh đó, hạn mức trả tiền bảo hiểm cần phải được điều chỉnh đủ cao để duy trì niềm tin công chúng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ tiến hành những cải cách, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, rủi ro hệ thống ngân hàng đã gia tăng và bộc lộ rõ ở những điểm sau: Vấn đề nợ xấu gia tăng của hệ thống các tổ chức tín dụng, tăng trưởng tín dụng cao nhưng chất lượng tín dụng thấp và có xu hướng giảm, lãi suất tiền gửi tăng cao, đặc biệt trong năm 2011, v.v.
Thứ ba, hạn mức trả tiền bảo hiểm ở mức 50 triệu đồng là quá thấp so với quy mô tiền gửi của khách hàng trong khi lượng tiền gửi và số người gửi tiền tăng lên nhanh chóng. Từ năm 2005 đến năm 2011, số lượng người gửi tiền đã tăng mạnh từ 10 triệu người lên 26 triệu người. Từ năm 2007 đến năm 2011, tổng số dư tiền gửi tăng khoảng gấp 3 lần, từ 700 nghìn tỉ VND lên 2058,9 nghìn tỉ VND. Tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ/tổng số tiền gửi được bảo hiểm đều có xu hướng giảm. Tính đến ngày 30/6/2011, với hạn mức trả tiền bảo hiểm là 50 triệu đồng, chỉ có 10,23% số dư tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ.
Như vậy, tình hình hiện tại đòi hỏi có những điều chỉnh phù hợp, kịp thời nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, duy trì niềm tin công chúng và tránh gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống tài chính ngân hàng đang có nhiều biến động trong thời gian gần đây.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định:
- Điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm lên mức 200 triệu đồng. Hạn mức này được xác định bằng 7,3 lần GDP bình quân tính theo đầu người năm 2011, và theo đó bảo hiểm toàn bộ cho 96,30% người gửi tiền/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm và 34,24% số tiền gửi/tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm.
- Điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm lên mức 1 tỷ đồng khi xảy ra những sự cố rút tiền hàng loạt trong hệ thống ngân hàng nhằm đưa ra thông điệp mạnh của Nhà nước trong việc bảo vệ đa số người gửi tiền.
- Chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn bộ khi xảy ra khủng hoảng. Việc chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn bộ có thể lập tức chấm dứt việc rút tiền của người dân khỏi hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, cơ chế này có thể làm gia tăng rủi ro đạo đức và gây khó khăn cho việc quay lại cơ chế bảo hiểm có hạn mức sau này. Cơ chế bảo hiểm toàn bộ cần được áp dụng thận trọng và chỉ trong trường hợp kịch bản xấu nhất có thể xảy ra.