Bộ nguyên tắc cho hệ thống BHTG hiệu quả của IADI
Nguyên tắc 1 – Mục tiêu chính sách công: Bước đầu tiên trong việc áp dụng một hệ thống BHTG hoặc cải cách hệ thống hiện tại là xác định rõ mục tiêu chính sách công phù hợp cần đạt được. Những mục tiêu này phải được chính thức cụ thể hóa và được đưa vào thiết kế của hệ thống BHTG. Các mục tiêu chính của hệ thống BHTG là góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính và bảo vệ người gửi tiền.
Nguyên tắc 2 – Giảm thiểu rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức sẽ được giảm thiểu bằng cách đảm bảo rằng hệ thống BHTG có các đặc điểm thiết kế phù hợp và thông qua các yếu tố khác của mạng an toàn tài chính (xem điều kiện tiên quyết ở đoạn 16).
Nguyên tắc 3 – Nhiệm vụ: Điều quan trọng là nhiệm vụ của một hệ thống BHTG cần phải rõ ràng và được quy định chi tiết, chính thức; cần phải có sự nhất quán giữa mục tiêu chính sách công với quyền hạn, trách nhiệm được trao cho hệ thống BHTG.
Nguyên tắc 4 – Quyền hạn: Một tổ chức BHTG cần phải có tất cả các quyền hạn cần thiết để hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình. Các quyền hạn này cần phải được chính thức quy định cụ thể. Tất cả các tổ chức BHTG cần phải có quyền lập quỹ phục vụ công tác chi trả, tham gia ký kết hợp đồng, đặt ra các quy trình và ngân sách hoạt động nội bộ, và có thể tiếp cận kịp thời và chính xác các thông tin để đảm bảo rằng hệ thống BHTG có thể đáp ứng các yêu cầu trách nhiệm của mình đối với người gửi tiền một cách kịp thời.
Nguyên tắc 5 – Quản trị: Tổ chức BHTG cần hoạt động một cách độc lập, minh bạch có uy tín và không bị tác động bởi hệ thống chính trị và khu vực tài chính ngân hàng.
Nguyên tắc 6 – Mối quan hệ với các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính: Cần phải xây dựng một khung phối hợp chặt chẽ và chia sẻ thông tin định kỳ hoặc thông tin liên quan đến các ngân hàng cụ thể giữa tổ chức BHTG và các thành viên khác của mạng an toàn tài chính. Các thông tin này phải chính xác và kịp thời (có thể bảo mật mật khi cần thiết). Cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin phải được chính thức hóa.
Nguyên tắc 7 – Các vấn đề xuyên quốc gia: Trước hết phải đảm bảo tính bảo mật tất cả các thông tin liên quan phải được trao đổi giữa các tổ chức BHTG trong phạm vi quy định của pháp luật khác nhau, và có thể được trao đổi giữa tổ chức BHTG và các thành viên mạng an toàn tài chính của nước khác khi thích hợp. Trong trường hợp có nhiều tổ chức BHTG khác nhau có trách nhiệm thực hiện bảo hiểm, điều quan trọng là phải xác định tổ chức BHTG nào sẽ có trách nhiệm đối với việc chi trả. Khi xác định số tiền thu phí bảo hiểm, cần phải tính tới việc các tổ chức đã được BHTG tại chính quốc (home country).
Nguyên tắc 8 – Bắt buộc tham gia BHTG: Cần áp dụng cơ chế BHTG bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tài chính nhận tiền gửi (ví dụ tổ chức nhận tiền gửi của cá nhân hoặc các doanh nhiệp nhỏ - các đối tượng cần được bảo vệ) để tránh vấn đề lựa chọn đối nghịch.
Nguyên tắc 9 – Phạm vi bảo hiểm: Các nhà hoạch định chính sách phải quy định rõ ràng bằng luật, các quy định an toàn hoặc các văn bản dưới luật định về loại tiền gửi có thể được bảo hiểm. Mức bảo hiểm nên có giới hạn nhưng phải đủ lớn và có thể nhanh chóng xác định được. Mức bảo hiểm này cần phải bảo hiểm đầy đủ cho phần lớn người tiền nhằm đáp ứng các mục tiêu chính sách công của hệ thống và phải nhất quán với đặc điểm thiết kế của thệ thống BHTG khác trong nước.
Nguyên tắc 10 – Chuyển từ hệ thống đảm bảo toàn phần sang áp dụng hệ thống BHTG có hạn mức: Khi một nước quyết định chuyển từ hệ thống đảm bảo toàn phần sang áp dụng hệ thống BHTG có giới hạn, hoặc thay đổi hệ thống đảm bảo toàn phần hiện có, việc chuyển giao này nên được thực hiện nhanh chóng ngay khi các điều kiện của nước đó cho phép. Đảm bảo toàn phần có thể gây ra nhiều tác động xấu nếu được áp dụng lâu dài, đặc biệt là rủi ro đạo đức. Các nhà hoạch định chính sách cần phải đặc biệt chú ý tới thái độ và kỳ vọng của công chúng trong giai đoạn chuyển giao này.
Nguyên tắc 11 – Cấp vốn: Một hệ thống BHTG phải có sẵn các cơ chế cấp vốn nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động chi trả cho người gửi tiền được nhanh chóng, bao gồm cả cách thức huy động nguồn tài chính dự phòng bổ sung cho mục đích thanh khoản khi cần. Các ngân hàng chịu trách nhiệm chính trong việc nộp phí BHTG bởi chính ngân hàng và khách hàng của ngân hàng sẽ trực tiếp được hưởng lợi từ hệ thống BHTG hoạt động hiệu quả.
Đối với mọi hệ thống BHTG (dù áp dụng hình thức thu phí trước, thu phí sau hay kết hợp) khi áp dụng cách thức thu phí theo mức độ rủi ro, các tiêu chí được sử dụng trong hệ thống thu phí này cần phải minh bạch đối với tất cả các thành viên tham gia. Ngoài ra, cần phải có sẵn mọi nguồn lực cần thiết để hỗ trợ công tác quản trị hệ thống thu phí theo mức độ rủi ro theo cách phù hợp nhất.
Nguyên tắc 12 – Nâng cao nhận thức: Để một hệ thống BHTG hoạt động hiệu quả, công chúng nhất thiết phải được biết đến lợi ích cũng như hạn chế của hệ thống BHTG.
Nguyên tắc 13 - Bảo vệ pháp lý: Tổ chức BHTG và nhân viên làm việc cho cơ quan này phải được bảo vệ trước các vụ kiện liên đới tới quyết định và hành động của họ “với thiện ý” trong khi thực hiện sứ mệnh. Tuy nhiên, họ có trách nhiệm phải tuân thủ đúng các quy định liên quan đến xung đột lợi ích và hành vi ứng xử nhằm đảm bảo họ luôn có trách nhiệm. Việc bảo vệ pháp luật phải được xác định rõ trong các quy trình lập pháp và hành pháp, và trong những trường hợp nhất định, phải bao gồm cả việc trang trải chi phí pháp lý đối với những người được bồi thường theo luật định.
Nguyên tắc 14 - Ứng phó với các bên gây ra đổ vỡ ngân hàng: Một tổ chức BHTG, hoặc một cơ quan chức năng, phải được trao quyền yêu cầu các bên gây ra đổ vỡ ngân hàng bồi thường theo luật định.
Nguyên tắc 15 – Phát hiện sớm, can thiệp và xử lý kịp thời: Cơ quan BHTG nhất thiết phải là một phần trong hệ thống an toàn tài chính để phát hiện sớm, can thiệp, và xử lý kịp thời các ngân hàng gặp vấn đề. Việc xác định và thừa nhận một ngân hàng đang hoặc được xem là có nguy cơ rơi vào khó khăn tài chính nghiêm trọng cần phải được thực hiện sớm trên cơ sở các tiêu chí đã được các thành viên độc lập khác nhau và có thẩm quyền liên quan của mạng an toàn tài chính xác định rõ ràng.
Nguyên tắc 16 – Quy trình xử lý hiệu quả: Các quy trình xử lý đổ vỡ hiệu quả phải giúp: tăng cường khả năng của cơ quan BHTG thực hiện các nghĩa vụ, bao gồm việc chi trả cho người gửi tiền một cách nhanh chóng, chính xác, và trên cơ sở công bằng; giảm thiểu chi phí xử lý và không gây xáo động thị trường; tối đa hóa việc thu hồi lại tài sản đã mất; và tăng cường kỷ cương thông qua việc áp dụng truy cứu pháp lý đối với các trường hợp sao nhãng hoặc có những hành động sai trái. Ngoài ra, cơ quan BHTG cùng các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia cần phải có đầy đủ thẩm quyền để thiết lập một cơ chế linh hoạt giúp duy trì các chức năng chính của ngân hàng bằng việc thúc đẩy hoạt động tiếp nhận của đơn vị chuyên trách thực hiện tiếp nhận tài sản có và tài sản nợ của một ngân hàng đổ vỡ (chẳng hạn cho phép người gửi tiền luôn được tiếp cận khoản tiền gửi của họ hay duy trì các hoạt động thanh quyết toán).
Nguyên tắc 17 – Chi trả người gửi tiền: Hệ thống BHTG phải hỗ trợ được người gửi tiền tiếp cận nhanh chóng tiền gửi được bảo hiểm của họ. Do vậy, cơ quan BHTG cần phải được sớm thông báo hoặc cung cấp đầy đủ thông tin trước trong các trường hợp được yêu cầu chi trả cũng như được tiếp cận nguồn thông tin về người gửi tiền sớm. Người gửi tiền phải có quyền hợp pháp được chi trả đúng hạn mức BHTG và phải được biết khi nào và trong hoàn cảnh nào cơ quan BHTG bắt đầu tiến trình chi trả, khung thời gian chi trả. Họ cũng phải được biết trước liệu có được chi trả trước hoặc tạm chi hay không, cũng như được biết hạn mức chi trả BHTG theo luật định.
Nguyên tắc 18 – Thu hồi: Cơ quan BHTG phải được tham gia nhận các khoản thu hồi được trong quá trình thu hồi từ tài sản của ngân hàng bị đổ vỡ. Việc quản lý tài sản và ngân hàng đổ vỡ và quy trình thu hồi (do cơ quan BHTG hoặc một bên khác thực thi theo quy định) cần phải được hướng dẫn cụ thể trên cơ sở các yếu tố thương mại và lợi ích kinh tế của hoạt động này.
THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BHTG TẠI VIỆT NAM
Thời gian qua Việt Nam mới thực hiện được đầy đủ 7 nguyên tắc, 7 nguyên tắc khác chúng ta mới chỉ thực hiện được một phần. 4 nguyên tắc chưa thực hiện được gồm: Các vấn đề xuyên quốc gia; Chuyển từ hệ thống đảm bảo toàn phần sang áp dụng hệ thống BHTG có hạn mức; Bảo vệ pháp lý - điều khoản miễn trách nhiệm đối với cán bộ BHTG làm việc với thiện ý; Xử lý các bên gây ra đổ vỡ. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, để phát triển hệ thống BHTG hiệu quả, cần đặc biệt chú ý thực hiện 5 nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, về tiềm lực tài chính.
Theo thông lệ quốc tế, để có thể đối phó với rủi ro tối thiểu thì tổ chức BHTG phải có quỹ tối thiểu từ 3-5% tổng số tiền gửi được bảo hiểm. Nhưng ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ này mới chỉ đạt xấp xỉ 1%.
Thứ hai, quyền cảnh báo và can thiệp kịp thời
Tổ chức BHTG ở Việt Nam cần được trao quyền hạn cần thiết để có thể thực hiện chức năng cảnh báo sớm và can thiệp, xử lý kịp thời đối với những tổ chức tham gia BHTG “có vấn đề”. Bởi trên thực tế hoạt động ngân hàng, bên cạnh những thành công vẫn còn những sai sót, thiếu an toàn trong hoạt động. Do đó, nếu cảnh báo sớm chúng ta sẽ kịp thời nhắc nhở các tổ chức tín dụng không tiếp tục sai phạm. Và nếu có cơ chế xử lý kịp thời sẽ ngăn chặn được sai phạm, không để sai phạm nối tiếp sai phạm, tích tụ đến lúc bùng phát thì không thể khắc phục được nữa.
Thứ ba, sự phối hợp trong mạng an toàn tài chính quốc gia
Mạng an toàn tài chính quốc gia gồm 4 cơ quan: Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương và Bảo hiểm tiền gửi. Điều quan trọng nhất, cần nêu rõ mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cơ quan, đặc biệt là cơ chế chia sẻ thông tin giữa các thành viên trong mạng an toàn tài chính.
Thứ tư, về vai trò độc lập của cơ quan BHTG.
Có vị trí độc lập tương đối thì BHTGVN mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, đây là sự độc lập tương đối, độc lập về nghiệp vụ, cơ chế để tổ chức này thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Còn khi triển khai các chức năng nhiệm vụ ấy thì tổ chức BHTG lại phụ thuộc rất nhiều các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính, chẳng hạn như phân chia trách nhiệm, chia sẻ thông tin .
Thứ năm là khung pháp lý
Ở hầu hết các nước trên thế giới, Luật BHTG thường được ban hành trước, sau đó mới đưa tổ chức BHTG đi vào hoạt động. Và do đã được luật hóa với các quy định rõ ràng nên tổ chức BHTG hoạt động rất thuận lợi, không còn phải tranh cãi về quan điểm. Ở Việt Nam thì ngược lại, cho đến nay nước ta có tổ chức BHTG hoạt động hơn 10 năm nhưng chưa có luật. Chính vì năng lực pháp lý chưa cao nên chưa tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức BHTG hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Chúng ta đều biết, hoạt động BHTG với các nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, hỗ trợ tài chính...gắn bó mật thiết, thường xuyên song hành với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong khi hoạt động ngân hàng đã có hai bộ luật điều chỉnh, đó là Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng, còn hoạt động BHTG mới chỉ được điều chỉnh bởi nghị định, với mức độ pháp lý thấp hơn.
Vừa qua, Quốc hội đã ra Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, trong đó có việc xây dựng luật BHTG để năm 2012 thông qua. Rất mong lịch trình đó được thực hiện đúng tiến độ để Luật BHTG sớm được ban hành và đi vào cuộc sống, Việc xây dựng Luật BHTG là nguyện vọng, đồng thời cũng là quyền của hơn 30 triệu người gửi tiền ở Việt Nam. Họ có quyền đòi hỏi tài sản, tiền bạc của mình gửi ở hệ thống ngân hàng phải được bảo vệ bằng khung pháp lý vững chắc - đó là Luật BHTG. Tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, các Bộ ngành hữu quan, hoạt động BHTG ở Việt Nam đang và sẽ tiệm cận, tiến tới mô hình BHTG theo thông lệ quốc tế tốt nhất.
Bộ nguyên tắc phát triển hệ thống BHTG hiệu quả và thực trạng hệ thống BHTG Việt Nam
Năm 2002, thể theo nguyện vọng của của hơn 100 nước có hệ thống bảo hiểm tiền gửi (BHTG) và theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng thanh toán quốc tế, Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) được thành lập nhằm liên kết các hệ thống BHTG tại 100 quốc gia thành một mạng lưới ở phạm vi toàn cầu. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của IADI là tổ chức nghiên cứu, xây dựng những nguyên tắc cơ bản để một hệ thống  BHTG có thể hoạt động hiệu quả. Trong 3 năm qua (2008-2010), IADI  và Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng  đã hợp tác nghiên cứu và xuất bản tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” Dưới đấy chúng tôi nêu tóm tắt 18 nguyên tắc do IADI đưa ra và so sánh một cách khái quát về hệ thống BHTGở Việt Nam với các nguyên tắc quốc tế nêu trên.