Hạn mức trả tiền bảo hiểm
Nghị định nêu rõ, số tiền bảo hiểm được trả tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi Thủ tướng Chính phủ ban hành hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Như vậy, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi được giữ nguyên, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng.
Hạn mức chi trả này được thực hiện từ năm 2005 và duy trì cho đến nay. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội trong nước hiện nay đã có nhiều thay đổi như: GDP bình quân đầu người tăng lên đáng kể, tỷ lệ giữa hạn mức chi trả BHTG so với GDP bình quân đầu người đã bị giảm, chỉ số lạm phát tăng và số người gửi tiền có mức tiền gửi trên 50 triệu đồng là rất lớn. Do vậy, việc duy trì mức chi trả tối đa tiền bảo hiểm 50 triệu đồng như hiện nay phần nào hạn chế mục tiêu của chính sách BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng, mức chi trả tối đa tiền bảo hiểm cần được xem xét và sớm điều chỉnh phù hợp với thực tế.
Ủy quyền trả tiền bảo hiểm
Điều 12 Nghị định 68 nêu rõ, tổ chức BHTG được ủy quyền cho tổ chức tham gia BHTG thực hiện chi trả số tiền bảo hiểm cho người được BHTG. Việc ủy quyền phải thông qua hợp đồng ủy quyền trả tiền bảo hiểm theo đúng quy định của pháp luật.
Trong nội dung hợp đồng ủy quyền phải nêu rõ trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG trong việc sử dụng số tiền do tổ chức bảo hiểm tiền gửi chuyển để chi trả đúng thời hạn, đúng số lượng, đúng đối tượng được trả tiền bảo hiểm.
Điều kiện để tổ chức tham gia BHTG được ủy quyền chi trả tiền bảo hiểm, đó là: tổ chức tham gia BHTG tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng trong thời gian tối thiểu 6 tháng gần nhất trước thời điểm chi trả tiền bảo hiểm; có mạng lưới đặt ở địa điểm thích hợp cho việc chi trả tiền bảo hiểm.
Với quy định cụ thể trong việc ủy quyền trả tiền bảo hiểm, quyền lợi của người được bảo hiểm tiền gửi vẫn bảo đảm và nếu họ có nhu cầu tiếp tục gửi khoản tiền vừa nhận thì ngân hàng được ủy quyền chi trả sẽ trực tiếp huy động. Điều này, có lợi cho người gửi tiền, tổ chức tham gia BHTG và đảm bảo ổn định trật tự xã hội.
Nhận tiền bảo hiểm
Nghị định 68 quy định cụ thể khi nhận tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm tiền gửi phải xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu. Trong trường hợp người nhận tiền bảo hiểm là người được ủy quyền, người thừa kế của người được bảo hiểm tiền gửi, ngoài việc xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, phải xuất trình các giấy tờ chứng minh tư cách là người được ủy quyền, người thừa kế của người được bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp gửi tiền tiết kiệm, ngoài việc phải xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, người được bảo hiểm tiền gửi phải xuất trình thẻ tiết kiệm.
Trường hợp mua giấy tờ có giá do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành, người được bảo hiểm tiền gửi phải xuất trình chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu.
Như vậy, với việc ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG, hệ thống văn bản pháp luật về BHTG đang ngày càng được hoàn thiện sẽ là yếu tố cốt lõi quyết định thành công trong việc thực hiện chính sách BHTG; tiến tới xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trở thành một trong những mắt xích quan trọng trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia.