Từ khi Nghị quyết số 42 được thực hiện, các tổ chức tin dụng (TCTD) đã được đa dạng trong việc xử lý nợ xấu. Qua đó, khách hàng cũng hợp tác hơn trong trả nợ, hạn chế những chủ tài sản chây ì. Các khó khăn của ngành ngân hàng trong xử lý nợ xâu tồn tại trong nhiều năm cũng đã được hướng dẫn giải quyết. Thu được nợ thì cũng là kênh dẫn vốn mới, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
Theo số liệu từ Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, tính đến cuối năm 2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được trên 1.300 nghìn tỉ đồng nợ xấu. Tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được khoảng 368,9 nghìn tỉ đồng (không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro). Số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ 15.8.2017 đến cuối năm 2021 đạt trung bình khoảng 6,92 nghìn tỉ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỉ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42 (giai đoạn năm 2012 - 2017). Tỉ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD trong giai đoạn 2016-2021 được duy trì dưới mức 3%.
Những kết quả đạt được đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của Nghị quyết số 42 trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu của các TCTD, góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, thu hồi vốn cho các TCTD để tái đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Vướng mắc phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu
Bên cạnh kết quả đạt được, qua quá trình theo dõi và phản ảnh của các TCTD hội viên cho thấy, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 42 vẫn còn phát sinh nhiều khó khăn và vướng mắc. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Hiệp hội Ngân hàng và các TCTD đã có nhiều văn bản báo cáo Quốc hội, Chính phủ và các Bộ ngành, tuy nhiên, đến nay nhiều vướng mắc vẫn chưa được tháo gỡ hoàn toàn hoặc cách áp dụng vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, làm hạn chế công tác xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD.
Thứ nhất, đó là vướng mắc trong thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ). Cụ thể, việc thu giữ hạn chế, gặp nhiều vướng mắc do phần lớn các hợp đồng bảo đảm cũ chưa có nội dung đáp ứng điều kiện tại điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42. Trong đó có những vướng mắc liên quan đến việc mua, bán, sang tên TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; vướng mắc về thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế chuyển nhượng TSBĐ; thiếu thông tin về hiện trạng TSĐB; và khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự. Hơn nữa, cũng chưa có quy định cụ thể trong việc xử lý đối với từng loại tài sản (động sản và bất động sản), các tài sản đặc thù, những trường hợp đặc biệt.
Thứ hai, vướng mắc trong áp dụng thủ tục rút gọn. Thực tiễn, hầu như chưa có TCTD nào áp dụng thành công thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết 42. Nguyên nhân chính là Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 42 chỉ áp dụng đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản biến động, tranh chấp về quyền xử lý tài sản biến động của khoản nợ xấu của TCTD mà chưa quy định rõ việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các TCTD với khách hàng vay. Do đó, chưa tạo được cơ sở pháp lý cho Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn rộng rãi khi TCTD khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp HĐTD.
Thứ ba, vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán/phát mại TSBĐ. Theo hướng dẫn của các Bộ/Ngành liên quan, trong quá trình xử lý TSBĐ để thu hồi nợ xấu của các TCTD theo quy định tại Nghị quyết số 42, tiền thu được từ việc xử lý TSBĐ sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý TSBĐ chưa được ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu của các TCTD theo như quy định tại Điều 12 Nghị quyết 42. Dẫn đến cơ chế ưu tiên thu hồi nợ xấu của các TCTD từ số tiền xử lý TSBĐ theo Nghị quyết 42 không được bảo đảm thực thi trên thực tế bởi sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa quy định tại Nghị quyết 42 với quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về thi hành án dân sự.
Thứ tư, khó khăn về nhận lại TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự. Điều 14 Nghị quyết 42 quy định: “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là TSBĐ của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD…”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích và lượng hóa các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể về việc “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”.
Thứ năm, vướng mắc trong nguyên tắc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Theo đó, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 42, một số cơ quan có thẩm quyền đã ban hành văn bản hướng dẫn các cơ quan cấp dưới hoặc áp dụng trong nội bộ ngành mình có nội dung tiếp tục duy trì việc áp dụng các Luật chuyên ngành như trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực. Dẫn đến mục tiêu ban hành các chính sách hỗ trợ để đẩy nhanh tiến độ xử lý, thu hồi nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42 không đạt được toàn diện, một số chính sách hỗ trợ hoạt động xử lý nợ xấu trong Nghị quyết 42 chưa đi vào thực tiễn.
Thứ sáu là sự thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự tại Việt Nam nhằm đóng vai trò làm đầu mối thông tin, kết nối các bên mua, bán nợ. Hệ thống thông tin về hàng hóa và các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ còn thiếu, chưa được chuẩn hóa và chưa có một đơn vị làm đầu mối thu thập, phân loại, xác thực và quản lý thông tin. Các tổ chức định giá còn thiếu kinh nghiệm, chưa có đầy đủ thông tin, cơ sở pháp lý trong việc xác định giá trị khoản nợ xấu, giá khởi điểm của khoản nợ xấu (qua thực tế các khoản nợ VAMC đã mua theo giá trị thị trường, việc xác định giá trị khoản nợ xấu vẫn dựa chủ yếu vào giá trị tài sản bảo đảm). Điều này khiến cho hoạt động mua bán nợ hiện nay còn sơ khai, thủ công, không khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường mua bán nợ như môi trường để phục hồi doanh nghiệp, đầu tư sinh lời cũng như tạo ra và đẩy mạnh tính thanh khoản của các khoản nợ. Do đó, việc tạo lập một thị trường mua bán nợ với mục tiêu tạo ra tính thương mại và khả năng sinh lợi cho bên mua nợ từ các khoản nợ được mua là cần thiết và sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả của việc xử lý nợ xấu cho hệ thống các TCTD.
Ngoài ra, dịch bệnh Covid-19 bùng phát trong khoảng 2 năm trở lại đây đã ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến hoạt động xử lý thu hồi nợ của các ngân hàng. Trong đó, kinh tế chịu thiệt hại nặng nề từ đại dịch Covid-19 dẫn tới suy giảm khả năng tài chính, giảm nhu cầu mua tài sản, mua khoản nợ của các đối tác, đồng thời nhiều nhà đầu tư có tâm lý e ngại, không dám mua tài sản vì sợ rủi ro do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh. Các dịch vụ liên quan đến hoạt động xử lý nợ tại một số địa bàn bị tạm dừng hoạt động trong nhiều tháng, như bán đấu giá, thẩm định giá, thừa phát lại… đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Nợ xấu của hệ thống các TCTD gia tăng là điều đã được dự báo trước khi mà sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân.
Trong hoàn cảnh đó, Nghị quyết 42 chỉ mang tính thí điểm, do đó cần được bổ sung, hoàn thiện và nâng cấp thành Luật xử lý nợ xấu hoặc bổ sung thêm một chương về xử lý nợ xấu vào Luật các TCTD ngay sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực. Việc xây dựng, bổ sung điều luật về xử lý nợ xấu để quy định về các biện xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả các khoản nợ xấu và xử lý TSBĐ các khoản nợ của TCTD.
Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp:
Trước hết, về hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, TSBĐ: Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần xem xét xây dựng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD theo hướng: Tiếp tục kế thừa các quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết số 42 còn phù hợp; Sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị quyết số 42 mà thực tiễn triển khai trong thời gian qua gặp khó khăn, vướng mắc như đã nêu trên.
Theo các chuyên gia, việc nghiên cứu, luật hóa Nghị quyết 42 để ban hành Luật Xử lý nợ xấu trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, bởi các lý do sau: Thứ nhất, giải quyết xung đột pháp luật; bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật cần thiết. Bởi các quy định trong Nghị quyết 42 được điều chỉnh hoặc liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác, như: Bộ Luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Quản lý thuế…Trong đó, một số văn bản pháp luật được ban hành sau thời điểm Nghị quyết có hiệu lực.
Thứ hai, cần đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật về xử lý nợ xấu: Trong trường hợp Quốc hội xem xét, thông qua việc luật hóa Nghị quyết 42 thì sau khi Luật Xử lý nợ xấu được ban hành và triển khai áp dụng, Chính phủ, NHNN cũng như các cơ quan chức năng có liên quan sẽ có cơ sở để tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và đề xuất ban hành đồng bộ các Nghị định, Thông tư quy định, hướng dẫn cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề, vướng mắc phát sinh xoay quanh việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Việc đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến xử lý nợ xấu sẽ là tiền đề quan trọng để xây dựng hành lang pháp lý cần thiết, hình thành một môi trường kinh tế lành mạnh, hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ chuyên nghiệp, bài bản cho Việt Nam, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Về hỗ trợ công tác xử lý nợ xấu: Để công tác xử lý nợ xấu được triển khai có hiệu quả trên thực tế, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc xử lý xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 nói riêng, cơ quan chức năng báo cáo Chính phủ cần nghiên cứu, đề xuất Quốc hội:
(i) Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42 nói riêng thông qua việc quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất nước; xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; đặc biệt là quy định liên quan đến thuế;
(ii) Chỉ đạo các cơ quan liên quan triển khai thi hành quy định về thủ tục rút gọn theo quy định pháp luật để giải quyết nhanh chóng yêu cầu khởi kiện theo quy định của Nghị quyết số 42 và Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP; có văn bản chỉ đạo về việc thực hiện quy định về hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết số 42;
(iii) Phối hợp với cơ quan thị hành án dân sự sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các TCTD được tra cứu trích xuất.
Đối với nhóm giải pháp về mua bán nợ, Việt Nam cần tạo lập một thị trường mua bán nợ với mục tiêu tạo ra tính thương mại và khả năng sinh lợi cho bên mua nợ từ các khoản nợ được mua và sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả của việc xử lý nợ xấu cho hệ thống các TCTD.
Mới đây, Sàn giao dịch nợ đã đi vào hoạt động giúp minh bạch hóa thông tin các khoản nợ xấu, TSBĐ, thúc đẩy thanh khoản trên thị trường, phấn đấu mục tiêu đưa VAMC trở thành trung tâm cung cấp thông tin về nợ xấu của TCTD và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua, bán nợ xấu. Thời gian tới, cần mở rộng phương thức mua, bán nợ xấu. Bởi hiện tại, việc mua bán nợ được thực hiện chủ yếu thông qua phương thức hợp đồng, nghĩa là bên mua nợ và bên bán nợ ký kết hợp đồng chuyển giao quyền và nghĩa vụ đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể.
Ngoài phương thức này, hiện chưa có cơ chế chuyển các khoản nợ thành một loại hàng hoá có thể chuyển nhượng/giao dịch dễ dàng. Thực tế, tại một số thị trường mua bán nợ phát triển, “chứng khoán hoá” được sử dụng để biến các khoản nợ, đặc biệt là nợ xấu thành chứng khoán phát hành cho nhà đầu tư, qua đó để giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả và tạo điều kiện phát triển cho thị trường mua bán nợ. Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay chưa có quy định về “chứng khoán hóa” khoản nợ. Do đó, trong thời gian tới, để thúc đẩy mua bán khoản nợ và phát triển thị trường mua bán nợ, việc nghiên cứu về cơ chế chứng khoán hóa các khoản nợ là rất cần thiết.
Cuối cùng là vấn đề nâng cao năng lực tài chính cho VAMC, kiện toàn nhân lực, cơ sở vật chất cho VAMC. Không những thế các TCTD cũng cần tăng cường đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao trong công tác xử lý, mua bán nợ xấu.
Hà Linh
Tài liệu tham khảo
Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn;
Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng