Thẩm quyền xác định tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng phá sản
Theo quy định của Luật BHTG thì nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan nào xác định tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản khi NHNN có Quyết định chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc Quyết định chấm dứt áp dụng hoặc quyết định không áp dụng các biện pháp phục hồi. Luật BHTG và Luật Các TCTD vẫn chưa xác định rõ ràng vấn đề này (do NHNN, TCTD hay Tòa án xác nhận).
Sớm thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm
Theo quy định tại Điều 24 Luật BHTG, hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia BHTG khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của NHNN. Tuy nhiên, đến thời điểm này hạn mức trả tiền bảo hiểm vẫn ở mức 50 triệu đồng cho một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG.
Việc duy trì quá lâu hạn mức trả tiền bảo hiểm trong khi các yếu tố như thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, số dư tiền gửi của người gửi tiền... không ngừng tăng lên đã làm ảnh hưởng đến niềm tin của người gửi tiền về chính sách BHTG, đặc biệt trong thời điểm nhạy cảm của thị trường tài chính. Hạn mức trả tiền bảo hiểm được điều chỉnh từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng (năm 2005) khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ vào khoảng trên 600USD. Đến năm 2013 con số này đã vào khoảng gần 2000USD (tăng gần 3 lần) trong khi hạn mức trả tiền bảo hiểm vẫn chưa được điều chỉnh là hết sức bất cập.
Trên thực tế, việc tăng hạn mức chi trả tiền bảo hiểm đã có những tác động tích cực đối với việc huy động tiền gửi của các tổ chức tham gia BHTG. Việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp để hạn chế phát sinh rủi ro đạo đức, nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào chính sách BHTG là một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Theo FDIC việc thay đổi hạn mức chi trả tiền bảo hiểm được căn cứ dựa trên một số nguyên tắc: (i) Thích ứng với mức tăng lạm phát theo thời gian.(ii) Kích thích tăng huy động vốn của các ngân hàng. (iii) Củng cố niềm tin của dân chúng đối với hoạt động ngân hàng.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, hạn mức trả tiền bảo hiểm trung bình toàn thế giới tương đương khoảng 2,5 lần GDP bình quân đầu người. Tỷ lệ trung bình của khu vực châu Á là 3 lần. Các quốc gia với hệ thống ngân hàng hoạt động rủi ro cao có xu hướng duy trì hạn mức chi trả cao hơn nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đang có xu hướng tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm ngày một cao hơn và thậm chí có nhiều nước đã cam kết trả 100% số tiền gửi khi có khủng hoảng tài chính. Điều này đã tạo được tâm lý ổn định của người gửi tiền và quyền lợi người gửi tiền được bảo vệ một cách tuyệt đối. Từ năm 2011, hạn mức trả tiền bảo hiểm của Việt Nam đã xuống thấp dưới 2 lần GDP bình quân đầu người. Hạn mức trả tiền bảo hiểm này đang thấp hơn các ngưỡng tối thiểu theo khuyến nghị của IADI. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã có những dấu hiệu rõ ràng báo hiệu cần thiết phải có sự thay đổi hạn mức BHTG nhằm đảm bảo và tăng cường hiệu lực của chính sách BHTG mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện thông qua hoạt động của BHTGVN. Việc xác định hạn mức BHTG trong thời gian tới cũng cần xác định ở mức hợp lý, cần được nghiên cứu, cân nhắc kỹ càng một số yếu tố ảnh hưởng và những bên có liên quan như người gửi tiền, tổ chức tham gia BHTG cũng như các cơ quan chức năng để đạt được một hạn mức chi trả BHTG tối ưu, thỏa mãn mục tiêu xuyên suốt của chính sách BHTG tại Việt Nam là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần vào sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Thực tế, khi tiến hành chi trả tiền bảo hiểm tại QTDND Trần Cao – Hưng Yên, số người gửi tiền trên 50 triệu đồng chiếm tỷ lệ 14% (34 người/tổng số 243 người), số tiền vượt hạn mức chi trả/tổng số tiền chi trả chỉ chiếm 5,6%. Tuy nhiên, khi đề cập đến hạn mức trả tiền bảo hiểm, những người có tiền gửi vượt hạn mức chi trả tha thiết đề nghị cơ quan có thẩm quyền sớm điều chỉnh nâng hạn trả tiền bảo hiểm để họ không bị thiệt thòi.
Quy định về người ký các văn bản trong Hồ sơ đề nghị chi trả tiền bảo hiểm
Theo quy định của Luật BHTG (Khoản 1, Điều 26) quy định về Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm do tổ chức tham gia BHTG lập và gửi BHTGVN. Như vậy, việc ký và đóng dấu trên Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm có thể là Giám đốc hoặc Chủ tịch HĐQT. Tuy nhiên, thực tế đã đặt ra tình huống, khi những đối tượng này bị mất tư cách thành viên hoặc vi phạm pháp luật bị khởi tố thì ai là người ký trong Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm?
Qua thực tế hoạt động chi trả tại QTDND Trần Cao thành viên HĐQT, Giám đốc, Ban kiểm soát đều bị khởi tố (con dấu và hồ sơ, chứng từ do NHNN và HĐTL quản lý), do vậy không có người đủ tư cách để lập, ký và đóng dấu trên hồ sơ đề nghị chi trả tiền bảo hiểm. Theo quy định của Luật Các TCTD (Điều 35) khi tổ chức tham gia BHTG bị rút Giấy phép hoạt động thì các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc (Giám đốc), Ban kiểm soát đương nhiên mất tư cách thành viên nên cũng không thể ký trên hồ sơ đề nghị BHTGVN trả tiền bảo hiểm. Đây là một trong những vướng mắc lớn trong việc trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại QTDND Trần Cao. Để giải quyết vướng mắc này NHNN Việt Nam đã chấp thuận cho BHTGVN được lấy Danh sách do Hội đồng thanh lý QTDND Trần Cao lập có chữ ký của đại diện QTDND Trần Cao (không phải là Giám đốc và Chủ tịch HĐQT) để làm căn cứ kiểm tra, xác định Danh sách và số tiền chi trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giải pháp tình thế. Do vậy, để có căn cứ thực hiện, những quy định về người ký trên Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm khi Giám đốc hoặc Chủ tịch HĐQT mất tư cách thành viên hoặc vi phạm pháp luật cần được quy định rõ ràng và cụ thể trong Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật BHTG.
Đề xuất, kiến nghị
Qua những phân tích và tình hình thực tế nêu trên cho thấy: Đến nay khung pháp lý cho hoạt động BHTG vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho BHTGVN hoạt động thuận lợi đúng quy định của pháp luật, góp phần bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, NHNN Việt Nam sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Luật BHTG; Nghị định hướng dẫn Luật BHTG, trong đó hướng dẫn cụ thể các trường hợp mà Luật BHTG, Nghị định hướng dẫn Luật BHTG chưa quy định, hướng dẫn cụ thể rõ ràng.
Thứ hai, NHNN Việt Nam xem xét và sớm trình Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Điều này không chỉ đáp ứng mong đợi của người gửi tiền mà còn thể hiện tính ưu việt của chính sách BHTG.
Thứ ba, NHNN Việt Nam sớm ban hành văn bản hướng dẫn quy trình xử lý đổ vỡ đối với tổ chức tham gia BHTG, nhất là đối với QTDND vì hiện nay các quy định về xử lý đổ vỡ đối với QTDND theo Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN ngày 06/6/2006 của NHNN không phù hợp với quy định của Luật BHTG và Luật Các TCTD.
- Luật BHTG; Luật Các TCTD
- Nghị định số 68 Hướng dẫn Luật BHTG;
- Các báo cáo của BHTGVN