Ông đánh giá thế nào về vai trò của cơ quan giám sát tài chính ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Để phát huy hơn nữa cơ chế giám sát của cơ quan này, theo ông cần có những giải pháp gì, thưa ông?
Ở Việt Nam, hoạt động giám sát trực tiếp lĩnh vực tài chính tiền tệ được phân tách theo chức năng của từng cơ quan: Ngân hàng Nhà nước làm nhiệm vụ thanh tra và giám sát hoạt động của các tổ chức tiền tệ tín dụng; Bộ Tài chính (cụ thể là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) giám sát thanh tra hoạt động của thị trường chứng khoán và các công ty kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Còn Cục Bảo hiểm (thuộc Bộ Tài chính) thanh tra giám sát hoạt động trên thị trường bảo hiểm v.v...Trong khi đó, VNFSC chưa có chức năng trực tiếp giám sát từng định chế tài chính, mà chỉ làm chức năng tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ trong việc giám sát tổng thể thị trường tài chính, cảnh báo sớm những rủi ro của thị trường và đưa ra các khuyến nghị với Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ cũng như các bộ ngành liên quan. Qua đó, duy trì sự lành mạnh trên thị trường tài chính.
Bên cạnh đó, VNFSC còn làm nhiệm vụ tham mưu về những chính sách vĩ mô, chủ yếu là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Trong tương lai, VNFSC sẽ làm thêm các chức năng gì sẽ tùy thuộc vào sự kiểm nghiệm trên thực tế mô hình nào là hợp lý nhất. VNFSC sẽ phải có trách nhiệm chia sẻ thông tin với các cơ quan giám sát chuyên ngành đồng thời đưa ra những khuyến nghị với các cơ quan chức năng về các chuẩn mực và tiêu chuẩn giám sát, điều phối hoạt động giám sát đó sao cho không chồng chéo trùng lắp, sao cho vẫn đảm bảo sự an toàn của hệ thống.
Sự phối hợp thông tin và hành động giữa các cơ quan giám sát tài chính hiện nay được nhận xét là còn thiếu và yếu. Để hiệu quả hơn trong việc giám sát hoạt động tài chính, các cơ quan này cần có sự phối hợp như thế nào, thưa ông?
Tại Việt Nam, hiện đang có sự tách bạch về chức năng giám sát chuyên ngành ở từng cơ quan quản lý Nhà nước được giao nhiệm vụ. Ở một số nước, ủy ban giám sát tài chính quốc gia sẽ là tập hợp toàn bộ những chức năng giám sát tổng thể toàn bộ thị trường tài chính. Còn tại Việt Nam, VNFSC hiện nay mới chỉ là cơ quan tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ về hoạt động thanh tra giám sát thị trường tài chính. Vấn đề hiện nay là ngay cả các cơ quan chuyên ngành cũng đang bỏ trống mảng giám sát hợp nhất toàn bộ thị trường và những rủi ro chéo phát sinh. Có những rủi ro vĩ mô vượt ra ngoài rủi ro vi mô của từng định chế tài chính, cần phải có sự giám sát ở mức cao hơn. Tuy nhiên, Chính phủ mới chỉ giao cho VNFSC thực hiện giám sát rủi ro tổng thể hợp nhất nhưng không trực tiếp vào từng định chế tài chính và cũng chưa có quyền hạn xử lý trực tiếp các tổ chức vi phạm. Do vậy, cần phải nâng cao sự phối hợp giữa các thành viên trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia, để hoạt động giám sát tài chính đạt hiệu quả cao.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được xem là một mắt xích quan trọng trong hệ thống giám sát tài chính. Theo ông, cần có những thay đổi gì trong quy định về BHTG để tổ chức BHTG ở Việt Nam phát huy hơn nữa vai trò của mình, thưa ông?
BHTG là tổ chức quan trọng, là một mắt xích trong hệ thống an toàn tài chính nói chung, trực tiếp đánh giá rủi ro của từng tổ chức tín dụng, từ đó đưa ra những cảnh báo sớm nhằm chấn chỉnh hoạt động, bảo đảm tính lành mạnh của từng tổ chức tín dụng. Và đồng thời nó cũng chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức nhận tiền gửi không có khả năng thanh toán và do đó giữ lòng tin của người dân đối với hệ thống, tránh hiện tượng đổ xô đi rút tiền khi có một tổ chức tín dụng bị đổ vỡ.
BHTGVN là một tổ chức mới thành lập, cho đến nay khoảng 10 năm. Với kinh nghiệm và quy mô vốn như hiện nay thì hoạt động còn tương đối khiêm tốn nhưng đã có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm lòng tin cho người gửi tiền đối với hệ thống tín dụng Việt Nam. Thực tiễn thời gian qua đã chứng tỏ không có tổ chức tín dụng nào ở Việt Nam mà việc suy giảm hoặc đóng cửa gây nên việc đổ xô đi rút tiền hàng loạt của người dân có sự đóng góp của BHTGVN. Tuy nhiên, vai trò của tổ chức này cần phải tăng cường hơn nữa. Tôi nhận thấy có hai nội dung cần tăng cường: Một là BHTGVN phải nâng cao năng lực hoạt động của mình để giám sát kỹ hơn và đưa ra những khuyến nghị kịp thời hơn, cảnh báo sớm hơn những rủi ro của từng tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm là không có đổ vỡ chứ không phải là đợi đến đổ vỡ mới thanh toán. Để làm tốt điều này, ngoài năng lực chuyên môn phải tiến tới thu phí bảo hiểm dựa vào rủi ro của từng tổ chức chứ không phải thu phí đồng loạt. Bởi vì, mỗi tổ chức phải chịu trách nhiệm về quản trị của mình, quản trị tồi hơn thì phải đóng phí BHTG cao hơn. Thứ hai, nâng dần mức BHTG cho người dân, mức 50 triệu hiện nay là quá thấp so với bình quân tiền gửi của người dân ở các ngân hàng. Cần phải nâng lên để người dân yên tâm hơn, từ đó họ sẽ không có những phản ứng tiêu cực khi có những hiện tượng đổ vỡ.
Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế nhận định, ở những nước có hệ thống BHTG hữu hiệu thì nước đó vượt qua khủng hoảng sớm hơn và nguyên tắc cao nhất đối với một tổ chức BHTG hiệu quả là tổ chức đó cần phải được độc lập tương đối so với cơ quan quản lý Nhà nước. Xin ông cho biết quan điểm của mình về vấn đề này?
Tôi chia sẻ sự đồng tình với việc cần tăng cường tính độc lập của tổ chức BHTG hiểu theo đúng bản chất của hoạt động BHTG. Theo tôi, Việt Nam phải coi đó là mục tiêu hướng tới để cải tiến và nâng cao vai trò của BHTGVN.
Xin cảm ơn Ông!