Qua kiểm tra tại 228 QTD cho thấy, nhìn chung các QTD đã có ý thức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tuy vậy, một số QTD qua kiểm tra vẫn còn vi phạm. Kết quả cụ thể như sau:
Đối với nội dung kiểm tra việc chấp hành quy định về BHTG :
Số QTD vi phạm về tính và nộp phí BHTG là 52/228 đơn vị, với tổng số phí nộp thừa là 41,2 triệu đồng và tổng số phí nộp thiếu là 5,6 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu của việc tính và nộp phí thiếu chính xác là do không loại trừ các đối tượng tiền gửi phải loại trừ theo quy định khi xác định số dư các loại tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm để tính phí, làm tròn số dư không đúng quy định.
Về việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo, niêm yết Chứng nhận BHTG, bổ sung hồ sơ pháp lý. Qua kiểm tra vẫn còn 80/228 đơn vị chưa gửi bổ sung kịp thời hồ sơ pháp lý đối với những thay đổi của QTD trong thời hiệu kiểm tra như thay đổi điều lệ tổ chức và hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thay đổi về nhân sự (thành viên HĐQT, Ban kiểm soát và Giám đốc đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, chuẩn y); 51/228 đơn vị vi phạm về chế độ thông tin báo cáo như chưa gửi đủ hoặc gửi chậm các loại báo cáo theo quy định cho BHTG Việt Nam; 5/228 đơn vị vi phạm về niêm yết Chứng nhận BHTG.
Đối với nội dung kiểm tra về an toàn trong hoạt động của QTD:
Qua kiểm tra cho thấy vẫn còn tình trạng vi phạm quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt động, như thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro sai quy định , vi phạm về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, cho vay đối với một khách hàng vượt 15% vốn tự có; , tỷ lệ khả năng chi trả cho 7 ngày làm việc tiếp theo.
Ngoài việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về an toàn trong hoạt động, BHTG Việt Nam còn tiến hành kiểm tra đánh giá mức độ rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động của QTD. Đối với rủi ro tín dụng, nội dung kiểm tra tập trung vào xem xét, đánh giá việc xây dựng và thực hiện quy trình xét duyệt cho vay; quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ của khách hàng; kiểm tra, đánh giá mức độ đa dạng hóa và chất lượng của danh mục tín dụng; xác định tỷ lệ nợ xấu. Đối với rủi ro hoạt động, được đánh giá thông qua việc kiểm tra công tác quản trị, điều hành, gồm xem xét cơ cấu tổ chức, tiêu chuẩn của thành viên HĐQT, ban kiểm soát, bộ máy điều hành đối chiếu với quy định của pháp luật để đánh giá mức độ phù hợp; xem xét việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT, ban kiểm soát, bộ máy điều hành. Trong đó, bên cạnh kiểm tra các yếu tố mang tính định lượng, việc kiểm tra đặc biệt tập trung vào các nội dung mang tính định tính như kiểm tra việc xây dựng và thực hiện các quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là việc thực hiện quy trình cả trước, trong và sau khi cho vay để đánh giá tính hợp lý, hiệu quả trong việc xây dựng và thực hiện quy trình của QTD.
Qua kiểm tra cho thấy, hầu hết các QTD đều đã xây dựng quy trình nghiệp vụ, nhưng vẫn còn một số QTD chưa xây dựng đầy đủ các quy trình, hoặc có xây dựng nhưng chưa chặt chẽ, nội dung còn chung chung, mang tính hình thức. Trong việc thực hiện quy trình thì vẫn còn có QTD có những vi phạm như chưa thực sự chú trọng việc kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn và sử dụng vốn vay của khách hàng, hồ sơ tín dụng không có phương án sản xuất kinh doanh, biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay; việc định kỳ hạn nợ không căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh; việc gia hạn nợ không đúng quy định, không xét đến khả năng trả nợ của khách hàng; đối với các món vay có tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất những chưa thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, qua kiểm tra còn phát hiện thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, bộ máy điều hành của một số QTD chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định của NHNN, cá biệt có QTD Ban kiểm soát và bộ máy điều hành chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nên đã dẫn đến những vi phạm, yếu kém trong hoạt động của QTD. Trên cơ sở kết quả kiểm tra các nội dung trên, đã phát hiện một số QTD được đánh giá rủi ro tín dụng ở mức độ cao, một số quỹ rủi ro hoạt động ở mức độ cao, có QTD cả hai loại rủi ronày đều ở mức độ cao.
Như vậy qua kiểm tra, ngoài việc phát hiện các vi phạm về BHTG và an toàn trong hoạt động của QTD, từ năm 2007 để từng bước nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đối với các tổ chức tham gia BHTG nói chung, hệ thống QTDND nói riêng, BHTGVN đã nghiên cứu để xây dựng văn bản kiểm tra an toàn theo định hướng chuyển dần từ kiểm tra tuân thủ sang kiểm tra trên cơ sở rủi ro. Chính vì vậy BHTGVN đã kiểm tra và phát hiện những sai sót, vi phạm trong quá trình thực hiện các quy trình nghiệp vụ, bước đầu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động của QTD, thông qua đó góp phần giúp các QTD có các giải pháp và hành động phù hợp nhằm phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro.
Qua công tác kiểm tra đối với QTDNDCS 10 tháng đầu năm 2010 cho thấy, tuy vẫn còn một số vi phạm, nhưng nhìn chung hoạt động của các QTD khá ổn định, đặc biệt là với bối cảnh nền kinh tế còn nhiều biến động phức tạp, sự cạnh tranh giữa các TCTD ngày càng gay gắt, trong khi đó các QTD lại có quy mô và địa bàn hoạt động nhỏ hẹp, chủ yếu ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Tuy vậy, để hoạt động của các QTD thực sự bền vững và hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gia tăng, các QTD cần phải có các giải pháp phù hợp để thực hiện tốt công tác quản lý rủi ro, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy kiểm soát nội bộ, quản trị điều hành.
Chấp hành tốt hơn quy định pháp luật về BHTG và an toàn hoạt động ngân hàng.
Với định hướng kiểm tra hàng năm được xây dựng trên cơ sở kết quả giám sát từ xa và có tính đến yêu cầu kiểm tra toàn diện 2 hoặc 3 năm một lần, đặc biệt là tập trung kiểm tra những QTD thuộc diện hoạt động yếu kém theo cảnh báo của giám sát từ xa, QTD có quy mô lớn, năm 2010 toàn hệ thống Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã xây dựng kế hoạch kiểm tra đối với 249 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở (QTDNDCS). , trong đó có 34 QTD mới được thành lập. Tính đến hết tháng 10/2010, toàn hệ thống đã tiến hành kiểm tra 228 QTD cơ sở, đạt 91,5% so với kế hoạch được duyệt, trong đó Chi nhánh BHTGVN tại thành phố Hồ Chí Minh và chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã hoàn thành 100% kế hoạch.