Hệ thống bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Sự ra đời của các hệ thống BHTG đều xuất phát từ cần thiết khách quan, từ yêu cầu khi kinh doanh ngân hàng gặp khó khăn, niềm tin của người gửi tiền cần được củng cố, quyền lợi người gửi tiền phải được đảm bảo. Chi trả bảo hiểm tiền gửi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống BHTG ở mọi quốc gia. Bài viết này xin đề cập đến một số nội dung liên quan tới hoạt động chi trả BHTG như: thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, thời hạn và thủ tục hồ sơ pháp lý khi tiến hành chi trả tiền bảo hiểm.
Chi trả BHTG là việc thực hiện cam kết thanh toán khoản tiền gửi được bảo hiểm bao gồm tiền gốc và tiền lãi của tổ chức BHTG cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm trong hạn mức chi trả. Chi trả BHTG là cách thức tổ chức BHTG bảo vệ trực tiếp quyền lợi người gửi tiền, khi mà mọi biện pháp nhằm khôi phục để tổ chức tham gia BHTG trở lại hoạt động bình thường không còn tác dụng. Vì vậy, việc xác định thời điểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm phù hợp có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của dân chúng với các ngân hàng khác chưa bị đổ vỡ, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt tại các tổ chức tham gia BHTG, giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Thời điểm trả tiền bảo hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Chính phủ đối với người dân trong việc đảm bảo chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ.
Trên thế giới, Mỹ và Hungary là hai nước có hệ thống BHTG được đánh giá hoạt động hiệu quả trong chi trả BHTG. Tại Hungary, Quỹ BHTG quốc gia Hungary (NDIF) chính thức được thành lập vào tháng 3/1993. Hoạt động chính của NDIF là chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Thời điểm chi trả được xác định khi Cơ quan giám sát tài chính Hungary (HFSA) có văn bản xác định tổ chức tham gia BHTG xảy ra tình trạng đóng băng tiền gửi hay mất khả năng thanh toán. Hoạt động chi trả của NDIF được thực hiện theo nguyên tắc chi phí thấp nhất. NDIF sẽ chi trả bồi thường cho các khách hàng theo hạn mức trong thời hạn 30 ngày làm việc và từ tháng 1/2010 thời gian chi trả đã rút xuống tối đa là 20 ngày làm việc, dự kiến giảm xuống còn 7 ngày làm việc sau năm 2012. Như vậy, việc NDIF rút ngắn thời gian chi trả là một bước tiến lớn vì quyền lợi của người gửi tiền. Từ năm 2011 đến tháng 6/2012, NDIF đã thực hiện chi trả đối với hai tổ chức thành viên với tổng số tiền là 42,1 tỷ HUF. Đối với cả hai trường hợp, NDIF đều thực hiện việc thanh toán trong vòng 20 ngày làm việc.
Điều này cho thấy, hoạt động chi trả của NDIF rất hiệu quả. NDIF thực sự bảo vệ được người gửi tiền, đồng thời giúp giảm thiểu những rủi ro hệ thống bằng việc củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, chấm dứt tình trạng hàng dài người đứng trước cửa ngân hàng với nỗi lo sợ rằng người đứng trước mình là người cuối cùng nhận được khoản tiền gửi vào ngân hàng.
Tại Mỹ, Tổng công ty BHTG liên bang Mỹ (FDIC) được thành lập và triển khai hoạt động BHTG từ năm 1934 để đối phó với hàng ngàn cuộc đổ vỡ ngân hàng xảy ra vào những năm 1920 và đầu thập kỷ 1930. Từ năm 2009 đến tháng 4/2011 mặc dù có 331 ngân hàng phải đóng cửa, nhưng quyền lợi của người gửi tiền ở các ngân hàng này đều được FDIC bảo vệ và chi trả tiền bảo hiểm kịp thời, nhanh gọn, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng, bản thân các ngân hàng bị đổ vỡ cũng được xử lý một cách êm thấm, hầu như không có cuộc đột biến rút tiền gửi lớn hoặc hoảng loạn ngân hàng nào xảy ra. Sự can thiệp kịp thời và hiệu quả của FDIC đã làm giảm đi sự trầm trọng của sự kiện đóng cửa nhiều ngân hàng tại Mỹ.
Tại Việt Nam, tổ chức BHTG được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000. Cũng như các tổ chức BHTG trên thế giới, hoạt động chi trả tiền gửi được bảo hiểm là một trong các hoạt động chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Từ khi thành lập đến tháng 3/2012, BHTGVN đã thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho 1.623 người gửi tiền tại 38 QTDND cơ sở trên địa bàn 11 tỉnh, thành phố với tổng số tiền chi trả là 21,8 tỷ đồng. Việc chi trả tiền bảo hiểm được tổ chức thực hiện nhanh gọn, chính xác và an toàn, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương có tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, tạo niềm tin của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định, phát triển của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam.
Hoạt động chi trả của BHTGVN trong thời gian từ năm 2012 trở về trước dựa trên Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/21999, Nghị định 109/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ, Thông tư 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản, hoặc kể từ ngày Tòa án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Thời hạn trả tiền bảo hiểm là 60 ngày, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Tuy nhiên, theo Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật phá sản đối với các TCTD thì từ khi TCTD nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì nhận thấy tổ chức mình lâm vào tình trạng phá sản đến thời điểm tòa án thông báo mở thủ tục phá sản phải mất khoảng thời gian chậm nhất là một tháng. Như vậy, thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong chừng mực nào đó chưa đáp ứng nguyên tắc 17 trong Bộ nguyên tắc phát triển hệ thống BHTG hiệu quả, đó là: “Hệ thống BHTG cần hỗ trợ được người gửi tiền tiếp cập nhanh chóng tiền gửi được bảo hiểm của họ”. Điều này ảnh hưởng đến việc đảm bảo tốt nhất hai mục tiêu quan trọng của hệ thống BHTG ở bất kỳ quốc gia nào, đó là bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền và ngăn ngừa hiện tượng rút tiền ồ ạt ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống.
Nhằm khắc phục những bất cập trong việc xác định thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, Điều 22 của Luật BHTG được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 tại kỳ họp thứ 3 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền cho người gửi tiền: “ Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”. Về thời hạn trả tiền bảo hiểm Luật vẫn giữ nguyên như các văn bản pháp luật trước đây là 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền.
Như vậy, quy định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền của tổ chức BHTG đã có sự tiến bộ hơn và cụ thể hơn với đối với hai trường hợp tổ chức tham gia BHTG là tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Điều này giúp người gửi tiền yên tâm, tin tưởng hơn rằng họ sẽ sớm tiếp cận được khoản tiền gửi được bảo hiểm khi tổ chức tín dụng nơi họ gửi tiền bị đổ vỡ và đáp ứng tốt nhất mục tiêu quan trọng của tổ chức BHTG.
Tuy nhiên, để Luật đi vào cuộc sống, một số khía cạnh sau đây liên quan đến chi trả BHTG mong muốn được quan tâm khi các cơ quan chức năng xây dựng, ban hành những các văn bản hướng dẫn dưới Luật:
Thứ nhất, hồ sơ đề nghị chi trả cần quy định rõ, chặt chẽ hơn. Ngoài bộ hồ sơ theo Luật cần có thêm: văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sau khi áp dụng các biện pháp cần thiết mà tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản; văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả; quyết định thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tham gia BHTG; sao kê tiền vay của người vay tiền; bảng cân đối tài khoản đến thời điểm chấm dứt hoạt động.
Thứ hai, có quy định cụ thể về việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong kiểm tra, rà soát các thông tin cần thiết khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đồng thời với nhiều tổ chức tham gia BHTG hoặc tại tổ chức tham gia BHTG có quy mô lớn.
Thứ ba, cần hướng dẫn chi tiết thủ tục nhận tiền bảo hiểm trong các trường hợp nhận tiền theo ủy quyền, tiền thừa kế, tiền gửi của người mất tích, đồng thời giao tổ chức bảo hiểm tiền gửi hướng dẫn chi tiết thủ tục nhận tiền bảo hiểm.
Cuối cùng, cần quy định rõ việc ủy quyền chi trả tiền bảo hiểm phải thông qua hợp đồng ủy quyền theo quy định của pháp luật, điều kiện, nội dung, trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG được ủy quyền trong việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền.
Chi trả tiền bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, tránh đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống. Chính vì vậy, việc xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm và thời hạn trả tiền bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc củng cố và duy trì niềm tin của dân chúng, người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì và ổn định hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
Nguyễn Thị Loan
Chi nhánh BHTGVN khu vực Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về BHTG; Nghị định 109/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 01/9/1999.
2. Luật BHTG được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3 ngày 19/6/2012.
3.Nghị định quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các tổ chức tín dụng ngày 18/1/2010 của Chính phủ.
4. Bài viết : “Bảo hiểm tiền gửi cái nhìn từ Mỹ tới Việt Nam” của Đỗ Lê Phương,
5. NDIF Serving depositors for 15 years – 2008;
6. Act CXII of 1996 on Credit Institutions and Financial Enterprises;
7. EFDI First report – 2011 – page 113