Tầm quan trọng của Chiến lược đối với sự phát triển toàn diện, bền vững và đồng bộ của ngành Ngân hàng
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Chiến lược) được phê duyệt theo Quyết định số 986/QĐ- TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngành, bao gồm cả hoạt động quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD); đảm bảo sự phát triển toàn diện, bền vững và đồng bộ của ngành Ngân hàng trong giai đoạn thực hiện Chiến lược. Đặc biệt, những trọng tâm để định hình các bước phát triển của toàn ngành trong tương lai cũng được thể hiện rõ trong Chiến lược.
Trong đó, hệ thống các quan điểm Chiến lược được coi là “điểm tựa” của Chiến lược, là “khởi nguồn” để xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp. Quan điểm phát triển ngành Ngân hàng trong Chiến lược được xây dựng phù hợp với đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam cũng như các xu thế biến đổi của kinh tế xã - hội trong và ngoài nước, bám sát các quan điểm, đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, như: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...
Những kết quả đáng khích lệ sau 3 năm ban hành, triển khai Chiến lược
Có thể khẳng định, việc xác định các định hướng phát triển một cách rõ ràng, cụ thể, phù hợp với các xu thế biến đổi kinh tế-xã hội trong và ngoài nước, bám sát các quan điểm, đường lối chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước đã giúp ngành Ngân hàng đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành mục tiêu tổng quát của ngành. Một số kết quả có thể kể đến như:
Hệ thống tiền tệ, ngân hàng và hoạt động của các TCTD là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam. NHNN đã điều hành chủ động, đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ theo mục tiêu lạm phát, ổn định thị trường. Chính sách tiền tệ được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa thông qua việc thường xuyên thông tin, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành về điều hành chính sách tiền tệ, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát, làm cơ sở để tính toán liều lượng, mức độ điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát chung, ổn định thanh khoản thị trường nội tệ và ngoại tệ. Kết quả, lạm phát bình quân giai đoạn 2018-2021 duy trì ổn định quanh ngưỡng mục tiêu 4%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra[1]. Tín dụng được điều hành phù hợp với các cân đối vĩ mô và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung tín dụng vào sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên; đã chú trọng phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh. Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cũng được kiểm soát chặt chẽ và triển khai đồng bộ với các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp để hạn chế tín dụng đen. Cơ chế tỷ giá được điều hành linh hoạt, kết hợp đồng bộ với công cụ lãi suất và quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại hối. Thị trường ngoại tệ ổn định đã góp phần không nhỏ trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo thanh khoản thị trường, quy mô dự trữ ngoại hối ngày càng tăng cao góp phần tăng tiềm lực tài chính quốc gia, tạo nguồn can thiệp khi cần thiết. Thị trường vàng cũng diễn biến ổn định và tự điều tiết tốt, giúp hạn chế tối đa việc can thiệp thị trường của NHNN.
Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, ngân hàng không ngừng được hoàn thiện theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường, yêu cầu phát triển kinh tế và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế tốt nhất. NHNN đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định và Thông tư, tạo cơ sở pháp lý hiệu quả cho NHNN thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD; xử lý nợ xấu; tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát; điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, vàng, thanh toán... Các văn bản pháp quy này đều hướng tới việc tiệm cận thông lệ, chuẩn mực quốc tế và từng bước tuân thủ các nguyên tắc thị trường, qua đó đã có tác động tích cực đến hoạt động tiền tệ, ngân hàng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Các TCTD thuộc mọi thành phần kinh tế được đối xử bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Vai trò tiên phong, chủ lực, chủ đạo của các TCTD trong nước tiếp tục được khẳng định. Đến nay, hệ thống các TCTD Việt Nam là một hệ thống đa loại hình và đa sở hữu với 7 NHTM Nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng Nhà nước mua bắt buộc), 28 NHTM cổ phần đều là các công ty đại chúng, 1 Ngân hàng Hợp tác xã và 1.181 QTDND; 11 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh; 48 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài; 49 Văn phòng đại diện; 27 công ty tài chính và cho thuê tài chính; 4 tổ chức tài chính vi mô. Các TCTD trong nước vẫn luôn duy trì được vai trò chủ lực, chủ đạo trong huy động và phân bổ tín dụng, cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
NHNN phát huy vai trò quan trọng trong việc kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng; chỉ can thiệp hành chính trực tiếp trên thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng khi phát sinh nguy cơ mất ổn định thị trường tiền tệ, đe dọa an toàn hệ thống, có khả năng đe dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô. Trong điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN luôn hạn chế tối đa việc can thiệp bằng công cụ hành chính. Theo đó, NHNN đã chuyển dần từ điều hành theo khối lượng tiền sang điều hành theo giá; sử dụng các công cụ gián tiếp. Mục tiêu điều hành ổn định thị trường tiền tệ được thực hiện thông qua việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở; Lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ; thực hiện công bố tỷ giá trung tâm hàng ngày trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ. Việc sử dụng các biện pháp quản lý hành chính chỉ áp dụng ở những thời điểm đặc biệt. Bên cạnh đó, NHNN cũng đẩy mạnh triển khai 3 trụ cột cải cách hành chính trong ngành Ngân hàng[2]. Nhờ vậy, NHNN tiếp tục là đơn vị đứng đầu trong các bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính năm năm liên tiếp, góp phần cải thiện đáng kể chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam. Tỷ lệ hoàn thành đúng hạn các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao trên Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu theo dõi liên thông Văn phòng Chính phủ đạt 100%.
Khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, điều hành và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc ứng dụng KH&CN được triển khai trong cả hoạt động quản lý, điều hành của NHNN và hoạt động kinh doanh của các TCTD. 100% các đơn vị thuộc NHNN đã triển khai xử lý văn bản, hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 100% văn bản gửi, nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia được tích hợp chữ ký số tổ chức và cá nhân NHNN. Các TCTD cũng đã có những bước đi cụ thể triển khai các hoạt động ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới của CMCN 4.0[3] vào hoạt động quản trị, kinh doanh. Việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cũng được chú trọng[4]. Nhiều TCTD đã và đang xây dựng chiến lược phát triển của đơn vị, trong đó xác định phát triển nguồn nhân lực và công nghệ thông tin là những nền tảng quan trọng để bứt phá trong tương lai.
Kiên định với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đặt ra, đồng thời khẩn trương xây dựng, ban hành các chiến lược/đề án bộ phận
Các thành quả trên đây mới chỉ là sự khởi đầu của một giai đoạn chiến lược phát triển mới đầy khát vọng. Trước bối cảnh tình hình thế giới và trong nước tiếp tục có những thách thức, biến động khó lường với nhiều xu hướng mới, ngành Ngân hàng cần tiếp tục kiên định với các định hướng trọng tâm đã đặt ra; tích cực, chủ động, vượt qua mọi khó khăn để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045”, khẳng định hơn nữa sứ mệnh và vai trò “huyết mạch” của Ngành đối với nền kinh tế.
Theo đó, giai đoạn từ nay đến 2025 và định hướng đến 2030, ngoài các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng, việc xây dựng, ban hành các chiến lược/đề án bộ phận là một trọng tâm được các đơn vị tích cực triển khai nhằm cụ thể hóa định hướng phát triển cho đơn vị/lĩnh vực được giao phụ trách, như: Chiến lược phát triển hệ thống công nghệ thông tin, Chiến lược phát triển hệ thống thanh toán và quyết toán, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực, các chiến lược phát triển của VAMC, Bảo hiểm tiền gửi tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS)… Việc triển khai các chiến lược/đề án bộ phận này đóng vai trò tiên quyết, góp phần thiết lập một hệ thống các hành động cụ thể để thực hiện các định hướng chiến lược phát triển chung của toàn ngành.
Đến thời điểm hiện tại, NHNN đã ban hành/tham mưu ban hành Chiến lược phát triển hệ thống công nghệ thông tin và an toàn, an ninh mạng của hệ thống ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến 2030 (Quyết định số 2655/QĐ-NHNN ngày 26/12/2019); Chiến lược phát triển của VAMC đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 2024/QĐ-NHNN ngày 27/11/2020); Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” (Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 8/6/2022). Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán và quyết toán và Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành Ngân hàng đến 2025, định hướng đến 2030 đang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện. Các chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi, NAPAS và Nhà máy in tiền Quốc gia đã được trình cấp có thẩm quyền để ký ban hành.
Nhiệm vụ, giải pháp cho BHTG
Với các nhiệm vụ, giải pháp đặt ra cho BHTGVN tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, việc khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển BHTG là cơ sở quan trọng để tổ chức này có thể triển khai tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Việc xây dựng, ban hành Chiến lược phát triển BHTG vừa xuất phát từ yêu cầu pháp lý (Khoản 1, Điều 13 Luật BHTG quy định tổ chức BHTG có quyền và nghĩa vụ xây dựng chiến lược phát triển để NHNN trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện), vừa xuất phát từ yêu cầu thực tiễn (bối cảnh kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, sự phát triển của KH&CN, sự phát triển của các mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới kéo theo yêu cầu BHTGVN cần xác định những định hướng trong tương lai nhằm hướng đến đáp ứng tốt hơn Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả).
Theo đó, nội dung Chiến lược phát triển BHTG cần được xây dựng phù hợp với với các nhiệm vụ, giải pháp tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, cụ thể:
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đã xác định: Phát triển BHTGVN theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, NHNN là cơ quan đại diện chủ sở hữu; thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng; Tăng cường năng lực tài chính, nâng cao năng lực hoạt động, hoàn thiện mô hình tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, tham gia kiểm soát đặc biệt, phát hiện, cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn đối với tổ chức tham gia BHTG; tham gia tái cơ cấu có hiệu quả đối với các tổ chức tín dụng yếu kém; tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi, quản lý nguồn vốn đầu tư, tuyên truyền chính sách BHTG, chi trả bảo hiểm theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và các quy định của pháp luật Việt Nam.
Tại Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” đã đặt ra yêu cầu: BHTGVN tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan theo hướng bổ sung chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN được tham gia cơ cấu lại TCTD yếu kém; nghiên cứu sửa đổi luật Bảo hiểm tiền gửi để sử dụng nguồn tiền kết dư phí bảo hiểm để xử lý QTDND yếu kém... BHTGVN được giao nhiệm vụ cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt; mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ; tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi QTDND, tổ chức tài chính vi mô, công ty tài chính; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, tham gia Ban kiểm soát đặc biệt...
Căn cứ các yêu cầu nói trên, trên cơ sở những kết quả đạt được trong triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi, đánh giá về khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động cũng như cơ hội và thách thức trong thời gian tới, Chiến lược BHTGVN cần đặt ra định hướng, giải pháp để tăng cường năng lực tài chính, quản trị của BHTGVN, góp phần thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ được quy định trong Luật BHTGVN và các nhiệm vụ được bổ sung trong giai đoạn mới, cũng như những định hướng trong trung và dài hạn, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền trong quá trình cơ cấu lại và phát triển các TCTD thời gian tới.
Thay lời kết
Chiến lược gia Joel Ross và Michael Kami thuộc Trung tâm nghiên cứu và phát triển quản trị ở Mỹ khi viết về chiến lược cũng đã nhận định: “Thiếu vắng một chiến lược, một tổ chức giống như một con thuyền không có bánh lái”. Đối với ngành Ngân hàng nói chung và các đơn vị nói riêng, việc xây dựng, ban hành được chiến lược phát triển, đồng thời, kiên định thực hiện theo các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của chiến lược là hết sức cần thiết để triển khai các hoạt động một cách đồng bộ, nhất quán, có hệ thống, đưa ngành Ngân hàng nói chung và BHTGVN nói riêng vươn tới tầm cao mới trên chặng đường phát triển và hội nhập.
TS. Đỗ Thị Bích Hồng - Phó trưởng phòng phụ trách Phòng Chiến lược ngân hàng,
Viện Chiến lược ngân hàng
ThS. Vũ Thị Mai Hương – Chuyên viên chính Phòng Quản lý khoa học,
Viện Chiến lược ngân hàng
[1] Lạm phát bình quân các năm 2018-2021 lần lượt là 3,54%; 2,79%; 3,23%, 1,84%.
[2] (1) Cải cách hành chính theo chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước; (2) Cải cách thủ tục của NHNN với TCTD, trọng tâm là phương thức điều hành, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, công vụ nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện có, đáp ứng yêu cầu xử lý công việc, đảm bảo kịp thời, chất lượng, hiệu quả; (3) Cải cách thủ tục của TCTD với doanh nghiệp, người dân theo hướng đơn giản hóa, giảm phí dịch vụ, nâng cao tính minh bạch và khả năng tiếp cận tín dụng, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong các giao dịch với TCTD, trực tiếp hỗ trợ cho doanh nghiệp
[3] Như dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence), và điện toán đám mây (Cloud Computing)
[4] NHNN đã hoàn thành xây dựng, ban hành Khung năng lực, khung chương trình cho toàn bộ 04 lĩnh vực chuyên môn chính của NHNN và Khung Đề án về việc chuẩn bị nguồn lực, cử và tiến cử đại diện tham gia học tập, công tác, nghiên cứu, biệt phái và trao đổi cán bộ tại các thể chế tài chính ngân hàng quốc tế; Khung năng lực, khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các vị trí trụ cột trong hoạt động của TCTD.