Năm 1999, trong bối cảnh hoạt động tài chính vi mô nói riêng cũng như hoạt động tài chính nói chung ở Việt Nam còn nhiều khó khăn, rủi ro cao, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) - nhóm tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chiếm thị phần lớn ở Việt Nam bị đổ vỡ hàng loạt, Chính phủ đã triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi và thành lập tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) với mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Tính tới cuối năm 2011, BHTGVN đã thực hiện bảo hiểm cho người gửi tiền tại 1.093 QTDND trên cả nước. Đây là nhóm chiếm tỷ trọng chủ yếu (91,4%) trong tổng số tổ chức tham gia BHTG. Hệ thống QTDND tại Việt Nam ngày càng phát triển rộng rãi nhưng có sự chênh lệch rất lớn về quy mô hoạt động. Song song với đó là sự khác biệt lớn về mức độ rủi ro trong hoạt động của các quỹ. Trong khi đó, phí BHTG hiện áp dụng đồng hạng cho mọi tổ chức tham gia BHTG, không phân biệt giữa các tổ chức hoạt động an toàn, hiệu quả và các tổ chức có rủi ro cao trong hoạt động. Việc áp dụng một mức phí chung cho các QTDND có quy mô và rủi ro hoạt động không đồng đều, thậm chí chênh lệch rất lớn đã không tạo được động lực để các quỹ hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả và tính an toàn trong hoạt động tài chính. BHTGVN cần xem xét, nghiên cứu xây dựng hệ thống tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG theo nguyên tắc rủi ro cao thì phí cao và rủi ro thấp thì áp dụng mức phí thấp. Việc xây dựng mức phí trên cơ sở đánh giá rủi ro sẽ tạo sự công bằng giữa các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức này hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời giúp người gửi tiền có thêm kênh thông tin đánh giá hoạt động của các tổ chức huy động tiền gửi, từ đó nâng cao niềm tin của công chúng, hạn chế rủi ro hoạt động tài chính.
BHTGVN hoạt động với mục tiêu hàng đầu là bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền. Với đặc thù Việt Nam là nước đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp thì những người gửi ít tiền, người nghèo, người có thu nhập thấp là đối tượng chính được hưởng lợi từ chính sách BHTG. Tính đến cuối năm 2011, BHTGVN đã thực hiện chi trả hơn 20 tỷ đồng cho người gửi tiền tại 38 QTDND trên toàn quốc bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán. Việc chi trả được thực hiện nhanh chóng, kịp thời đã bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền, qua đó góp phần nâng cao niềm tin của người gửi tiền và ổn định hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Hạn mức chi trả BHTG đã được nâng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng vào năm 2005. Tuy nhiên, kể từ năm 2005 tới nay, chỉ số lạm phát tăng cao, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng đáng kể, tiền gửi của nhóm người gửi tiền nhỏ - khách hàng chính của hoạt động tài chính vi mô và cũng là đối tượng bảo vệ chủ yếu mà BHTG hướng tới cũng phổ biến ở mức trên 50 triệu đồng. Hạn mức chi trả hiện đang áp dụng đã không còn phù hợp, không đảm bảo được lợi ích của số đông người gửi tiền nhỏ. Do vậy, BHTGVN cần phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu nâng hạn mức chi trả tiền bảo hiểm cho phù hợp với tình hình hiện nay. Việc nâng hạn mức chi trả bảo hiểm sẽ củng cố tốt hơn niềm tin của người gửi tiền nhỏ, bảo vệ đầy đủ quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời góp phần tạo dựng sự phát triển bền vững của hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam.
Hiện nay, BHTGVN đã thực hiện giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ đối với 100% tổ chức tham gia BHTG. Trong đó, đặc biệt chú trọng kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động và khả năng thanh toán, cảnh báo kịp thời đối với các QTDND có các chỉ tiêu bảo đảm an toàn chưa cao. Thông qua đó góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động của hệ thống QTDND. Cùng với sự phát triển của hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam, hệ thống QTDND đang ngày càng phát triển rộng rãi cả về số lượng và quy mô. Hiện có hơn 1.000 QTDND đang hoạt động, chiếm phần lớn các tổ chức tham gia BHTG. Đặc trưng của nhóm này là địa bàn hoạt động trải rộng, quy mô không đồng đều và thông tin kém minh bạch so với các tổ chức tín dụng khác. Trong khi đó mạng lưới BHTG còn ít, nhân sự còn thiếu. Do vậy BHTGVN cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy, mạng lưới hoạt động, tăng cường năng lực của đội ngũ nhân sự để hoạt động giám sát, kiểm tra được triển khai hiệu quả, đảm bảo mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền.
Các khách hàng của tài chính vi mô đa phần ở khu vực nông thôn, miền núi… những nơi có hạn chế nhất định về khả năng tiếp cận thông tin chính sách BHTG cũng như tài chính, ngân hàng. Vì vậy, họ là người dễ bị tổn thương nhất khi xảy ra rủi ro. Hơn nữa, do nguồn tài chính hạn hẹp nên khi có rủi ro, người nghèo, người thu nhập thấp dễ bị đẩy vào tình trạng khó khăn hơn và mất thêm thời gian dài để khắc phục. Bởi vậy, để thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để gia tăng hiểu biết của người dân về chính sách BHTG, trong đó đặc biệt chú trọng tới khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc đưa thông tin đến với người nghèo, người thu nhập thấp sẽ giúp họ nhận thức được đầy đủ quyền và lợi ích của mình, đồng thời giúp họ an tâm hơn về khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng. Từ đó, giúp họ có thể tăng cường tính chủ động và ổn định kinh tế.
Luật BHTG đã được ban hành và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2013, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc triển khai chính sách BHTG ở Việt Nam. Một trong những điểm mới của Luật BHTG là mức phí BHTG và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm không còn quy định một mức cụ thể như trước mà giao thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG và hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của NHNN. Để Luật BHTG nhanh chóng đi vào cuộc sống, BHTGVN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, tích cực đóng góp xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để khi Luật được đưa vào thực hiện sẽ bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tổ chức tín dụng nói chung cũng như hệ thống QTDND nói riêng.