Theo Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012, “Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm”.
Hạn mức trả tiền bảo hiểm phải đủ cao để bảo hiểm toàn bộ cho phần lớn người gửi tiền, duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, hạn mức cũng phải phù hợp để tránh rủi ro đạo đức và rủi ro kinh doanh của các ngân hàng.
Hạn mức trả tiền bảo hiểm được xác định dựa trên các căn cứ: tình hình kinh tế vĩ mô (GDP bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, biến động tỷ giá,…); mức độ rủi ro hệ thống; niềm tin, hành vi của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng; và tình hình lượng tiền gửi, số người gửi tiền trong hệ thống ngân hàng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, hệ thống tài chính bất ổn, hạn mức thường được nâng lên rất cao hoặc chi trả không giới hạn (bảo hiểm toàn bộ cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm).
Căn cứ thứ nhất – tình hình kinh tế vĩ mô: Theo nghiên cứu kinh nghiệm trên thế giới, trong điều kiện kinh tế bình thường, hệ thống tài chính ổn định, tỷ lệ hạn mức/GDP bình quân đầu người khoảng từ 2,5 – 5 lần.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2000. Tại thời điểm đó, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 5,7 triệu đồng, hạn mức trả tiền bảo hiểm được xác định là 30 triệu đồng Việt Nam, gấp 5,27 lần GDP bình quân đầu người lúc bấy giờ.
Năm 2005, khi mà GDP bình quân đầu người đã tăng lên đến 10,2 triệu đồng, hạn mức trả tiền bảo hiểm đã được nâng lên 50 triệu đồng Việt Nam, gấp 4,91 lần GDP bình quân đầu người năm 2005. Tuy nhiên, từ 2005 tới nay, dù nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước phát triển mới, trải qua nhiều biến động, nhưng hạn mức trả tiền bảo hiểm vẫn không thay đổi. Cuối 2011, khi mà GDP bình quân đầu người tăng lên đến 28,8 triệu thì tỷ lệ hạn mức trả tiền bảo hiểm/GDP bình quân đầu người giảm xuống chỉ còn 1,73 lần.
Căn cứ thứ hai – mức độ rủi ro hệ thống: rủi ro hệ thống càng cao thì hạn mức trả tiền bảo hiểm phải càng cao để ổn định niềm tin của người gửi tiền.
Trong giai đoạn từ 2008 tới nay, nền kinh tế thế giới đã trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và nhiều bất ổn lớn ở khu vực kinh tế đồng tiền chung châu Âu. Hàng loạt các ngân hàng lớn bị phá sản, bị thâu tóm; thị trường tài chính ở nhiều nước lâm vào nguy cơ đổ vỡ hệ thống,… Để đối phó với tình trạng rút tiền hàng loạt khỏi hệ thống ngân hàng của người gửi tiền, nhiều nước đã nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm lên gấp nhiều lần như Mỹ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nga,…, thậm chí đưa ra chính sách chi trả không giới hạn (chính sách bảo hiểm toàn bộ) như Đức, Áo, Đan Mạch, Hồng Kông, Singapore,...
Nhìn lại thực tế Việt Nam thời gian qua, quy mô hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng tăng, khiến cho cạnh tranh ngày càng gay gắt; tín dụng liên tục tăng trưởng nhanh, nhưng chất lượng lại thấp và có xu hướng giảm; tình hình thanh khoản của các ngân hàng cũng luôn là đề tài “nóng”; các quy định, chính sách về lĩnh vực ngân hàng chưa đáp ứng được thông lệ, chuẩn mực quốc tế; công tác quản trị ngân hàng chưa được chú trọng,…Tất cả những yếu tố này khiến cho rủi ro hệ thống tài chính nói chung và rủi ro hệ thống ngân hàng nói riêng của Việt Nam tăng cao. Nếu như trước kia người dân chưa biết đến sáp nhập ngân hàng, thì nay chuyện đó đã xảy ra; nếu như trước kia người dân chưa nghĩ đến phá sản ngân hàng, thì nay đã nghĩ đến. Như vậy, có thể thấy, rủi ro hệ thống ngân hàng thực sự đã tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hạn mức trả tiền bảo hiểm từ năm 2005 vẫn giữ nguyên, chưa được thay đổi để phù hợp với mức độ rủi ro của hệ thống, do vậy hạn mức hiện nay không có nhiều ý nghĩa đối với việc giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Căn cứ thứ ba – niềm tin, hành vi của người gửi tiền: Niềm tin, hành vi của người gửi tiền đối với hệ thống tài chính là một yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định của hệ thống. Khi người gửi tiền mất niềm tin vào hệ thống tài chính, thì chỉ cần một biến cố nhỏ cũng có thể dẫn tới hiện tượng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Do đó, trường hợp niềm tin của người gửi tiền giảm thì hạn mức trả tiền bảo hiểm cần được nâng lên để củng cố niềm tin đó, đảm bảo an toàn cho người gửi tiền, góp phần giữ ổn định hệ thống.
Theo một khảo sát mới đây của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, hệ thống tài chính Việt Nam bộc lộ một số yếu kém, người dân đã quan tâm hơn tới các yếu tố rủi ro của ngân hàng khi lựa chọn gửi tiền. Nếu như trước kia, người gửi tiền chỉ quan tâm đến lãi suất khi lựa chọn ngân hàng gửi tiền, thì nay họ đã phải quan tâm hơn tới các yếu tố khác như uy tín, quy mô tài sản,… của các ngân hàng. Điều này cho thấy, người gửi tiền đã “khó tính” hơn đối với hệ thống ngân hàng, họ không còn giữ niềm tin tuyệt đối vào hệ thống ngân hàng như trước kia.
Căn cứ thứ tư – tình hình lượng tiền gửi, số người gửi tiền trong hệ thống ngân hàng: một trong những mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiền, bảo đảm an toàn cho số tiền gửi tại hệ thống ngân hàng của người dân. Do vậy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi phải đảm bảo được cho đa số người gửi tiền và tiền gửi.
Theo khảo sát các nước trên thế giới trong giai đoạn từ 2007-2011, tỷ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ so với số người gửi tiền được bảo hiểm thường chiếm khoảng trên 90%, tỷ lệ số tiền được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số tiền được bảo hiểm phần lớn nằm trong khoảng từ 20-30%. Tuy nhiên, từ 2007-2011 ở Việt Nam, theo khảo sát của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, với hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tối đa 50 triệu đồng, tỷ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ so với số người gửi tiền được bảo hiểm thấp hơn 90%, tỷ lệ số tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số tiền gửi được bảo hiểm giảm từ 19% xuống 10%. Như vậy, tỷ lệ số tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ so với tổng số tiền gửi được bảo hiểm của Việt Nam đang giảm đi rất nhiều. Nghĩa là hạn mức hiện nay ở Việt Nam chưa đảm bảo cho đa số tiền gửi.
Việc tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho người gửi tiền, góp phần ổn định hệ thống tài chính, nhưng cũng phải cân nhắc các yếu tố sau:
(1) Hạn mức sau khi điều chỉnh phải đảm bảo duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính và giảm thiểu rủi ro đạo đức;
(2) Quy mô quỹ bảo hiểm tiền gửi: Cần có lộ trình tăng quy mô quỹ bảo hiểm tiền gửi để quỹ có đủ năng lực đáp ứng hạn mức muốn hướng tới. Nguồn chủ yếu để tăng quỹ là từ phí bảo hiểm tiền gửi. Ngoài ra, trong trường hợp khẩn cấp, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần được tiếp cận các nguồn hỗ trợ đặc biệt;
(3) Văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi về hạn mức trả tiền bảo hiểm phải đảm bảo hiệu lực thi hành và tính khả thi.
Qua phân tích các căn cứ, dựa trên tình hình thực tế của Việt Nam những năm vừa qua và xu hướng tăng hạn mức trên thế giới cho thấy việc tăng hạn mức là rất cần thiết để góp phần nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống ngân hàng. Khi tăng hạn mức, cần thực hiện 3 vấn đề nêu trên. Khi xảy ra khủng hoảng, có thể chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn bộ. Việc chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn bộ có thể lập tức chấm dứt việc rút tiền của người dân khỏi hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, cơ chế này có thể làm gia tăng rủi ro đạo đức và gây khó khăn cho việc quay lại cơ chế bảo hiểm có hạn mức sau này. Vì vậy, cơ chế bảo hiểm toàn bộ cần được áp dụng thận trọng và chỉ trong trường hợp kịch bản xấu nhất có thể xảy ra. Song song với đó, cũng cần xây dựng kế hoạch rút lui trở về giai đoạn bình thường với cơ chế bảo hiểm có hạn mức, trong đó nêu rõ khung thời gian để chuyển tiếp về giai đoạn bình thường có tính tới các yếu tố như: tác động có thể có với niềm tin của người gửi tiền, khả năng đạt được mục tiêu chính sách công và hạn mức mới hợp lý sau khủng hoảng.
Tài liệu tham khảo
1. FSB (2012), “Đánh giá chuyên đề về các hệ thống Bảo hiểm tiền gửi – Báo cáo đánh giá đồng đẳng”
2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2011), “Báo cáo khảo sát tiền gửi”
Cơ sở xác định hạn mức chi trả tiền bảo hiểm - kiến nghị và đề xuất
Nền kinh tế Việt Nam những năm qua đã bộc lộ nhiều bất ổn, hệ thống ngân hàng cũng trong giai đoạn có nhiều biến động. Để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng Việt Nam và bảo vệ tốt nhất người gửi tiền, chính sách về bảo hiểm tiền gửi cần phải có nhiều thay đổi. Việc Quốc hội thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 là một bước tiến quan trọng trong xây dựng chính sách về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Một trong những điểm quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng là quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm. Hạn mức này sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ.