Trước viễn cảnh ảm đạm của nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia trên thế giới đã có những biện pháp mạnh mẽ để từng bước tháo gỡ khó khăn đồng thời ngăn chặn một cuộc đại suy thoái. Trong lúc này vai trò của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) càng được phát huy tối đa để nâng cao niềm tin của công chúng vào nền tài chính quốc gia, tránh tình trạng đổ xô rút tiền ồ ạt ra khỏi các tổ chức nhận tiền gửi, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức BHTG trong giai đoạn hiện nay là cần đánh giá chính xác những tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro với những mức độ khác nhau để nhanh chóng có những biện pháp ứng phó và điều chỉnh kịp thời và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV), tổ chức BHTG duy nhất tại Việt Nam cũng cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Để đảm bảo công tác cảnh báo sớm đạt hiệu quả cao thì yêu cầu quan trọng là phải nâng tầm công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động giám sát, kiểm tra có chất lượng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của DIV trong việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng.
1. Đối với hoạt động giám sát từ xa
Hoạt động giám sát từ xa giúp cho DIV thường xuyên nắm được tình hình hoạt động cuả tổ chức tham gia BHTG từ đó đưa ra các biện pháp, kiến nghị kịp thời. Mặt khác, khi chất lượng hoạt động này được nâng cao thì khả năng đánh giá, xếp hạng rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG sẽ chính xác và có tính thuyết phục hơn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho DIV khi triển khai áp dụng phương pháp tính phí theo mức độ rủi ro cũng như tiến hành kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG được trọng tâm, trọng điểm. Muốn nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa cần quan tâm đến các nội dung sau:
a) Chất lượng thông tin đầu vào và tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát liên quan
Hiện nay, hoạt động giám sát từ xa của DIV chủ yếu dựa trên nguồn thông tin báo cáo của các tổ chức tham gia BHTG nộp và các nguồn thông tin khác của các cơ quan giám sát như NHNN, Bộ tài chính….Điều này vừa thể hiện tính thụ động vừa không kịp thời. Nên chăng, cần phối hợp xây dựng một hệ thống thông tin chi tiết về các tổ chức tham gia BHTG có thể dễ dàng chia sẻ giữa các cơ quan giám sát với nhau. Khi đó, các tổ chức tham gia BHTG nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung chỉ cần gửi báo cáo một nơi và các thông tin này sẽ được phân quyền cho từng cơ quan giám sát theo mức độ quản lý để khai thác sử dụng. Việc này tránh tình trạng mỗi cơ quan giám sát phải ban hành văn bản quy định về cung cấp thông tin đối với các tổ chức tài chính, đồng thời giảm được chi phí do việc tổ chức tài chính phải gửi thông tin đi nhiều nơi.
b) Xây dựng và hoàn thiện quy trình giám sát
Cho đến thời điểm này DIV đang thực hiện giám sát việc tuân thủ các quy định về BHTG, quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tham gia BHTG là chủ yếu (như đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn….), giám sát trên cơ sở đánh giá rủi ro đối với tổ chức tham gia BHTG còn rất hạn chế. Do đó, DIV chưa thể đánh giá hết những rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG theo các chỉ tiêu giám sát hiện nay được.
Hiện tại, việc giám sát từ xa của nhiều quốc gia đã sử dụng hai công cụ phân tích chủ yếu: các màn hình giám sát (supervisory screens) và các mô hình kinh tế lượng (econometric models). Các màn hình giám sát là sự kết hợp các chỉ số tài chính được rút ra từ bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập trong quá khứ để đưa ra các cảnh báo trước về các vấn đề an toàn và lành mạnh của ngân hàng. Các nhà giám sát sử dụng kinh nghiệm của họ để xem xét cẩn trọng và đánh giá nội dung thông tin của các chỉ số này. Các mô hình kinh tế lượng cũng kết nối các thông tin từ các chỉ số tài chính, tóm tắt lại các thông tin về tình hình ngân hàng qua báo cáo kế toán thống kê thành một số, tuy nhiên, dựa vào máy tính hơn là sự phán đoán để kết nối các chỉ số tài chính. Trong một vài mô hình, con số này biểu hiện xác suất mà một ngân hàng có thể phá sản, hoặc xuống hạng, trong những mô hình khác con số này biểu hiện sự xếp loại giám sát được phán định. Tuy các mô hình kinh tế lượng được chứng minh là có sự chính xác cao hơn phương thức màn hình giám sát, nhưng trong thực tế các màn hình giám sát lại được sử dụng phổ biến hơn. Điều này được giải thích qua một số lý do: (i) có thể là sự chính xác thêm của các mô hình kinh tế lượng không đáng giá so với chi phí tăng thêm, (ii) hoặc có lẽ tính linh hoạt của màn hình giám sát làm nó hấp dẫn đặc biệt đối với môi trường hoạt động ngân hàng năng động ngày nay, (iii) hoặc các nhà phân tích giám sát ngại phải học tập cách thức giải thích các chỉ tiêu thống kế phức tạp của các mô hình kinh tế lượng…
Qua kinh nghiệm nghiên cứu hệ thống giám sát của các quốc gia, DIV cần nhanh chóng xây dựng quy trình đánh giá rủi ro phù hợp theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế thế giới có nhiều biến động thì việc sử dụng phần mềm thống kê phân tích theo các mô hình kinh tế lượng trong hoạt động giám sát sẽ giúp DIV có những nhận xét, đánh giá chuẩn xác hơn.
Tuy nhiên, việc ứng dụng các mô hình kinh tế lượng đòi hỏi phải hội đủ các điều kiện, nếu vi phạm các điều kiện này thì mô hình kinh tế lượng không hữu dụng và thậm chí còn có tác hại nguy hiểm, cụ thể:
(1) Nguyên nhân đối với tai họa trong số các ngân hàng trong tương lai phải tương tự như các nguyên nhân của tai họa trong quá khứ. Dự đoán của các mô hình cảnh báo sớm sẽ có sai số lớn nếu các ảnh hưởng làm cho các ngân hàng chịu đựng các khó khăn tài chính trong tương lai khác với các ảnh hưởng gây nên những khó khăn tài chính trong quá khứ. Các dự đoán về các vấn đề tài chính của các ngân hàng có nguồn gốc từ mô hình cảnh báo sớm nếu hình thành quá trễ so với các biến động mới và mạnh mẽ của môi trường kinh tế không thể giúp các nhà giám sát nhận diện các ngân hàng dễ phá sản nhất.
(2) Nguyên tắc hạch toán kế toán rành mạch và sự tuân thủ nghiêm ngặt đối với việc xử lý vi phạm các nguyên tắc kế toán. Sử dụng mô hình kinh tế lượng dựa vào giả định rằng dữ liệu kế toán, thống kê là chính xác.
(3) Kiểm tra tại chỗ thường xuyên bởi các kiểm tra viên là những người không bị ảnh hưởng quyền lực của các nhà ngân hàng. Kinh nghiệm cho biết rằng kiểm tra tại chỗ là rất quan trọng đối với việc xác nhận độ chính xác của dữ liệu kế toán mà các nhà ngân hàng cung cấp cho cơ quan giám sát.
(4) Chế độ quy định nhất quán toàn bộ thời gian. Ước lượng của mô hình cảnh báo sớm bao gồm việc dự đoán một vài biến cố, đó có thể là sự phá sản ngân hàng, sự xuống hạng trong giám sát, hoặc sự giảm sút các chỉ số vốn xuống các mức thấp tương đối. Các điều kiện đối với việc xuất hiện các biến cố này về cơ bản phải còn như nhau qua thời gian khi mô hình được ước lượng và mô phỏng. Nếu các nhà giám sát thay đổi các điều luật về đóng cửa ngân hàng, thay đổi các điều kiện đối với các mức giám sát xuống hạng, hoặc thay đổi quy định hạch toán có ảnh hưởng đến các chỉ số vốn, mô hình cảnh báo sớm sẽ không hữu ích đối với việc dự đoán ngân hàng nào có vấn đề.
c) Nâng cao chất lượng báo cáo giám sát của DIV theo hướng tăng cường chức năng dự báo, cảnh báo sớm thông qua công tác giám sát từ xa có sự kết hợp cả hai phương thức giám sát từ xa là các màn hình giám sát và các mô hình kinh tế lượng. Hoàn thiện quy trình xử lý tiếp nhận thông tin, xây dựng kho dữ liệu phục vụ công tác giám sát, cảnh báo và chia sẻ thông tin với các Bộ, ngành hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả giám sát, tránh chồng chéo hoặc bỏ sót trong việc giám sát hoạt động tài chính – ngân hàng.
d) Hiện đại hóa cơ sở vật chất, công nghệ và nguồn nhân lực cho hoạt động giám sát:
Việc tính toán các chỉ tiêu giám sát hiện vẫn còn thực hiện bằng phương pháp thủ công, nên độ chính xác thấp và một số chỉ tiêu chưa tính toán được. Do đó trong thời gian tới DIV nên xây dựng phần mềm giám sát đủ mạnh, có thể tính toán chính xác các chỉ tiêu (đặc biệt khi áp dụng các hệ thống giám sát tiên tiến như đã nêu ở trên), phân tích số liệu chính xác và nhanh chóng giúp cho công tác giám sát đạt hiệu quả cao.
Đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát cũng phải thường xuyên được nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới để có thể đáp ứng được những thách thức mới trong quá trình phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin hiện nay.
2. Đối với công tác kiểm tra tại chỗ
Kiểm tra tại chỗ là một công tác rất quan trọng của DIV. Chính nhờ công tác kiểm tra tại chỗ mà các cơ quan giám sát mới phát hiện được những sai sót, vi phạm khó phát hiện được qua hoạt động giám sát từ xa, trên cơ sở đó đánh giá độ tin cậy, trung thực của các báo cáo kế toán, báo cáo thống kê của các tổ chức tham gia BHTG. Hiện nay, DIV chủ yếu thực hiện kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật về BHTG mà chưa có quy trình cụ thể cho công tác kiểm tra an toàn trong hoạt động của các ngân hàng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay thì điều đó là cực kỳ nguy hiểm bởi khi có sự đổ vỡ của một định chế tài chính có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống tài chính của một quốc gia. Do vậy, trong thời gian tới, DIV cần kết hợp kiểm tra việc tuân thủ với kiểm tra an toàn để kịp thời phát hiện ra những tổ chức tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao trong hoạt động để họ có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
Một tài liệu quý cần được tham khảo, đó là tài liệu “Hướng dẫn kiểm tra an toàn” của FDIC. Điểm tiên tiến của tài liệu này là tổ chức kiểm tra sẽ đánh giá đơn vị được kiểm tra theo Hệ thống CAMELS gồm 06 thành phần: C (Capital) : Vốn của ngân hàng; A (Asset): Chất lượng tài sản có; M (Management): Năng lực quản lý; E (Earnings) : Khả năng sinh lời; L (Liquidity): Tính thanh khoản; S (Sensitive): Độ nhạy cảm với rủi ro.
Qua đó có thể đánh giá toàn diện tổ chức tham gia BHTG, phát hiện và xác định được những rủi ro từ thành phần nào và có biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Tóm lại, DIV cần đẩy mạnh hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ để đưa ra những cảnh báo sớm đối với các tổ chức tham gia BHTG có khả năng gặp rủi ro để có thể “sàng lọc”, “khoanh vùng” từ đó có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, tránh tình trạng đổ vỡ hàng loạt các định chế tài chính, ảnh hưởng đến an toàn tài chính quốc gia.
Các tin khác
Đồng chí Đặng Duy Cường được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Ngày 18/9/2024, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) tổ chức Lễ công bố Quyết định chỉ...
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tập huấn về kiểm soát đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân
Ngày 21 và 22/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã tổ chức tập huấn về kiểm soát đặc biệt (KSĐB) đối với quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) cho các cán bộ nghiệp vụ tại Chi nhánh.
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Tây Bắc Bộ tổ chức tọa đàm chính sách bảo hiểm tiền gửi
Sáng ngày 25/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Tây Bắc Bộ...
Ông Phạm Trường Giang – Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Phú Thọ: Đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Phú Thọ trong việc triển khai chính sách BHTG trên địa bàn
Đó là khẳng định của ông Phạm Trường Giang – Giám đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh...
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Đông Bắc Bộ tuyên truyền chính sách BHTG tại Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lạng Sơn
Ngày 21 và 22/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Đông Bắc Bộ đã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ (HLHPN) tỉnh Lạng Sơn tổ chức tuyên truyền chính sách BHTG tại hai lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội cho Chủ tịch HLHPN cấp cơ sở và Chi hội trưởng Phụ nữ năm 2024.