Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), từ năm 2001 trở lại đây có khoảng trên 40 TCTD được sáp nhập, giải thể là các Ngân hàng Thương mại cổ phần và Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Đối với các TCTD được sáp nhập hoặc giải thể tự nguyện, các khoản nợ được sắp xếp thu hồi ổn thỏa trong khả năng thanh toán của TCTD. Tuy nhiên, nhiều TCTD, chủ yếu là QTDND, số nợ tồn đọng lớn, không thể thanh toán cho các chủ nợ, vì vậy thời gian thanh lý thu hồi nợ kéo dài. Trong số 40 TCTD, có 10 QTDND bị giải thể bắt buộc, được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) chi trả tiền gửi nằm trong tình trạng đó.
Thực trạng của TCTD bị phá sản, giải thể
Theo quy định, một TCTD sau thời gian kiểm soát đặc biệt không có khả năng phục hồi trở lại hoạt động bình thường, cấp có thẩm quyền sẽ ra quyết định thu hồi giấy phép, giải thể bắt buộc và thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đồng thời tiến hành thanh lý tài sản dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Trong quá trình đó, quyền lợi, nghĩa vụ thanh toán nợ của các bên được xử lý, thanh toán theo trật tự ưu tiên của pháp luật.
Một trong những vấn đề được ưu tiên giải quyết đầu tiên tại các TCTD này là đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Như trên đã nói, 492 người gửi tiền tại 10 QTDND bị giải thể bắt buộc đã được BHTGVN chi trả kịp thời tổng số tiền là 10,4 tỷ đồng. Điều này tạo niềm tin, giúp người dân yên tâm, phấn khởi, ngăn chặn nguy cơ lan truyền, tiếp tục đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các TCTD khác trên địa bàn.
Tuy nhiên, công việc tiếp theo là thu hồi nợ tồn đọng tại các QTDND này để kết thúc thanh lý mới là vấn đề khiến các cơ quan chức năng gặp rất nhiều khó khăn. Đó là công việc mà hầu như ai cũng nghĩ có thể hoàn tất trong vòng 1 đến 2 năm do có sự vào cuộc của các cơ quan đặc biệt là chi nhánh NHNN, chính quyền địa phương và cơ quan pháp luật. Nhưng thực tế 10 năm qua, ngoại trừ 01 QTDND đã tạm thời hoàn tất, còn lại hầu như các QTDND thanh lý này vẫn còn đang “thanh lý” bởi sự phức tạp, khó khăn của nó.
Đến hết 30/6/2011, tổng số thu thanh lý tại 9 QTDND trên là 10,62 tỷ đồng, chiếm 35,16% tổng các khoản phải thu, số nợ thu được hàng năm chỉ đạt bình quân 5,19% tổng các khoản phải thu, có năm chỉ thu được 1,66% tương đương với 0,67 triệu đồng. Số còn phải thu là 19,55 tỷ đồng, trong đó chỉ có khoảng dưới 10% nợ có khả năng thu, còn lại trên 90% là nợ khó thu và không còn khả năng thu.
Thực tế trên cho thấy sự trì trệ, thời hạn kéo dài, hiệu quả thanh lý thấp. Từ năm 2001 đến nay, trong 10 HĐTL đều đã được gia hạn thời gian thanh lý ít nhất là 3 lần, nhiều nhất là 10 lần (1 kỳ gia hạn tối đa 6 tháng). Trong quá trình thu hồi nợ, do tính chất khó khăn của hoạt động này, thời gian kéo dài, chí phí thấp, vướng mắc cơ chế, nên hầu như các thành viên HĐTL, có thể nói từ sự nhiệt tình ban đầu đi đến phó mặc cho cơ chế, một số HĐTL hầu như không hoạt động. Đặc biệt một số cán bộ thanh lý (là cán bộ QTDND trước đây được trưng dụng để gắn trách nhiệm nợ) đã lợi dụng tiền thu hồi thanh lý để sử dụng cá nhân.
Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân, song những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thanh lý như hiện nay, đó là:
- Trên 94% nợ thanh lý là khó thu và không còn khả năng thu nhưng không được xử lý kéo dài từ nhiều năm trước khi QTDND thực hiện thanh lý. Đây là hậu quả của sự thiếu trách nhiệm, yếu kém, vi phạm pháp luật trong quản lý, điều hành, thực hiện của cán bộ, nhân viên QTDND. Tuy nhiên cũng phải kể một phần do nguyên nhân khách quan, người vay không có khả năng trả nợ.
- Thành viên HĐTL là cán bộ kiêm nhiệm, chưa đầu tư thời gian thỏa đáng, thiếu chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực quản lý và thanh toán tài sản thanh lý, phá sản.
- Cơ chế pháp lý trong công tác thanh lý ở một số khâu còn bất cập: cán bộ, nhân viên QTDND vi phạm pháp luật gây thất thoát tài sản. Tuy nhiên, việc quy trách nhiệm, khởi tố đối với cá nhân vi phạm để thu hồi tài sản cho QTDND nói trên chưa được thực hiện triệt để, toàn diện. Bên cạnh đó mức chi cho công tác thanh lý chưa phù hợp để đảm bảo chi phí tối thiểu cho thành viên thu hồi nợ.
- Thời hạn thanh lý QTDND theo quy định (tại Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN) tối đa không quá 6 tháng và được phép kéo dài (gia hạn), nhưng không quy định cụ thể thời hạn được phép kéo dài cũng như biện pháp xử lý và chế tài đối với các HĐTL hoạt động không hiệu quả, có biểu hiện né tránh, thiếu kiên quyết, thậm chí vi phạm. Đó là một trong những khoảng trống khiến các HĐTL kéo dài hơn 10 năm qua.
- Hầu hết các QTDND thanh lý hoạt động cầm chừng, một số không còn khả năng thu hồi nợ để thanh toán cho các chủ nợ, nhưng lại không thể chấm dứt thanh lý và thực hiện thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010 và ý 3 điểm b, khoản 4 Điều 32 Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN. Do sự bất cập, chưa phù hợp trong cơ chế pháp lý giải quyết phá sản, giải thể TCTD với đặc thù của hoạt động tiền tệ và ngân hàng.
Một vài bài học kinh nghiệm rút ra
Những năm qua, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế giới và hiện tại là sức ép tăng giá, sự biến động tăng cao của thị trường vàng, ngoại hối, nhưng hoạt động của các TCTD cả nước nói chung và tại khu vực ĐBSCL nói riêng vẫn giữ được ổn định. Tuy nhiên không thể tránh khỏi nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, cần có những quy định pháp luật để điều chỉnh, xử lý, giải quyết một cách hiệu quả các TCTD có nguy cơ đổ bể, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, an toàn hệ thống. Đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền cũng như các bên trong quan hệ chủ nợ, người vay. Thực trạng thanh lý tại các QTDND, mà nguyên nhân sâu xa chính xuất phát từ sự yếu kém trong quản lý điều hành của TCTD kéo dài nhiều năm, không được xử lý dứt điểm, đúng quy định. Một vài kinh nghiệm được rút ra mang tính tham khảo:
1. Đối với các TDTD:
- Tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và NHNN trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các giải pháp, chỉ đạo của Chính phủ và NHNN trong tình hình hiện nay. Tổ chức xây dựng, triển khai đầy đủ, kịp thời đúng quy định của pháp luật và của NHNN hệ thống quy định nội bộ, quy trình nghiệp vụ, chuyên môn.
- Thực hiện đúng quy định, quy trình kiểm duyệt, kiểm tra, giám sát, công khai các quy định nội bộ và kết quả, thông tin, kể cả những tồn tại, sai phạm hoạt động theo quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng hoạt động, hạn chế thấp nhất tiêu cực, sai phạm. Khắc phục và xử lý dứt điểm những tồn tại, vi phạm ngay khi được phát hiện và được kiến nghị bởi cơ quan chức năng. Đặc biệt là QTDND cần thực hiện nghiêm Chỉ thị số 04/2008/CT-NHNN về chấn chỉnh hoạt động. Trong đó chú trọng rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện, thực hiện nghiêm các quy định nội bộ về quản trị, kiểm soát, điều hành, các quy trình nội bộ, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ, phòng ngừa, xử lý kịp thời. Chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, năng lực quản trị, điều hành và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ quản trị, kiểm soát, điều hành QTDND, tuân thủ các quy định tại Quyết định số 31/2006/QĐ-NHNN.
- Chấp hành nghiêm túc quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định. Xử lý dứt điểm nợ xấu, gắn với trách nhiệm nợ của cán bộ tránh để dây dưa, kéo dài.
Thực trạng, hậu quả nợ thanh lý để lại là bài học nhân - quả quý giá cho các TCTD. Tuy nhiên, tồn tại này vẫn hiện hữu tại một số ít TCTD. Kết quả kiểm tra tại chỗ của Chi nhánh DIV khu vực cho thấy trên 30% trong tổng số vi phạm được phát hiện tại các QTDND thuộc về rủi ro hoạt động: Ban Lãnh đạo QTDND chưa đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn, trình độ, chưa tuân thủ quy định quản trị điều hành; không ban hành các văn bản nội bộ hoạt động như Quy chế cho vay; Ban kiếm soát hoạt động không đúng chức năng, nhiệm vụ... dẫn đến các vi phạm khác trong hoạt động tín dụng. Sự ra đời, phát triển mạng lưới chi nhánh, tất yếu xảy ra cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường, thu hút, lôi kéo nhân lực của các TCTD, đặc biệt là giữa các NHTM diễn ra mạnh mẽ, gay gắt. Kèm theo đó tiềm ẩn nguy cơ rủi ro trong công tác quản trị, điều hành, quản lý nhân sự, để lại những khoản tín dụng chạy theo chỉ tiêu, các khoản đầu tư không hiệu quả do không được tìm hiểu, thẩm định đầy đủ, thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ, là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tăng cao.
- Trên cơ sở quy định hoạt động nội bộ cụ thể, xác định rõ trách nhiệm bồi hoàn vật chất, liên đới của tập thể và cá nhân đối với những vi phạm, sai phạm xảy ra. Xử lý dứt điểm tồn tại sai phạm.
2. Đối với công tác thanh lý
- Sau khi thực hiện các giải pháp củng cố, chấn chỉnh TCTD không thể tiếp tục hoạt động bình thường, cần tiến hành đúng quy định trình tự về giải thể TCTD. Thực hiện đúng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền (nếu tại TCTD còn tiền gửi của người dân).
- Tiếp nhận, bàn giao hồ sơ, tài liệu, số liệu công nợ theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, xác định rõ trách nhiệm bồi hoàn vật chất, liên quan của tập thể và cá nhân vi phạm làm thất thoát tài sản, tiến hành khởi tố các vụ vi phạm thu hồi tài sản cho TCTD. Hạn chế sự dây dưa kéo dài các khoản nợ trong thanh lý.
- Để công tác thanh lý hiệu quả, kết thúc thanh lý trong thời hạn quy định, thì hệ thống cơ chế liên quan đến công tác thanh lý TCTD cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời, đảm bảo thống nhất, đồng bộ và phù hợp với thực tế. Để tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực trong công tác xử lý các TCTD hoạt động không hiệu quả của các cơ quan. Pháp luật về thanh lý, mở thủ tục, tiến hành giải quyết phá sản, giải thể TCTD phải phù hợp với đặc thù của hoạt động tiền tệ, đảm bảo thống nhất giữa pháp luật liên quan như Luật TCTD, Luật phá sản và các luật khác.
Liên quan đến công tác thanh lý tài sản của TCTD, Dự Luật về Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã và đang được lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân để trình Quốc hội thông qua trong năm 2012. Trong đó, một trong những nội dung của Dự Luật tiếp tục được kế thừa pháp luật BHTG hơn 10 năm qua, đó là Tổ chức BHTG có trách nhiệm thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ.
Khi Dự Luật được thông qua, DIV sẽ có cơ sở nâng cao hơn nữa trách nhiệm trong việc xây dựng và triển khai cơ chế tiếp nhận và xử lý đồng bộ các TCTD khi khủng hoảng và đổ vỡ, nhằm hạn chế hậu quả ở mức thấp nhất và bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, hạn chế sử dụng ngân sách để giải quyết các tổ chức tài chính yếu kém, góp phần đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.