Trên cơ sở điều chỉnh của Luật, có rất nhiều kỳ vọng, mong muốn vào sự chi tiết, cụ thể của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, để BHTGVN phát huy tốt vai trò của mình trong việc thực hiện mục tiêu cuối cùng: bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự an toàn, ổn định của hệ thống TCTD. Điều này rất cần thiết vì khi nếu các điều trong Luật chưa được hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể, rõ ràng trong nghị định sẽ dẫn tớiviệc triển khai các hoạt động nghiệp vụ BHTG, bị ngưng trệ, khó khăn, vướng mắc,.
Trước hết, về cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam , trước đây tại Nghị đinh 89/1999/NĐ-CP và NĐ 109/2005/NĐ-CP nội dung này chưa được đề cập. Luật BHTG quy định tại Khoản 1 Điều 29: “Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ”. Những năm qua, BHTGVN đã đã tổ chức triển khai hiệu quả chính sách BHTG mới tại Việt Nam, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu của Đảng và Chính phủ đặt ra, đó là ổn định niềm tin người dân tăng cường nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định hoạt động TCTD. Hiện nay, các tổ chức như: Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội... là những tổ chức có nhiệm vụ thực thi chính sách công và mô hình tương tự như BHTGVN, được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập, quy định chức năng nhiệm vụ và ban hành Nghị định về Điều lệ tổ chức và hoạt động của các đơn vị này. Vì vậy việc Chính phủ thành lập và phê duyệt điều lệ hoạt động của tổ chức BHTGVN là phù hợp với thông lệ và kế thừa pháp luật trước đây về lĩnh vực này.
Về chế độ thông tin, báo cáo của BHTGVN, Luật BHTG quy định việc cung cấp thông tin của tổ chức tham gia BHTG đối với BHTGVN và đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Khoản 6, Điều 12 và Điều 34. Tuy nhiên, Luật mới chỉ đề cập chung nghĩa vụ, trách nhiệm của các đơn vị này mà chưa quy định cụ thể, chi tiết loại thông tin, dữ liệu, hình thức cung cấp. Chính vì vậy, rất cần sự hướng dẫn, quy định cụ thể, chi tiết để giúp BHTGVN thuận tiện hơn và khắc phục tồn tại hiện nay.
Về tiền gửi được bảo hiểm: trong các loại tiền gửi bảo hiểm được quy định tại Điều 18 Luật BHTG, có hình thức tiền gửi khác, loại này được dẫn chiếu theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Nhưng loại tiền gửi khác này, Luật các TCTD (Khoản 13 Điều 4 và Khoản 1, 2 Điều 98) không quy định cụ thể là những loại nào. Thực tế, tại TCTD có nhiều loại tiền gửi khác của các cá nhân gửi tại đây. Ở khía cạnh khác, nhiều trái phiếu ghi danh (của cá nhân) do TCTD phát hành và được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu của TCTD, đây là tiền gửi của cá nhân thuộc đối tượng được bảo hiểm. Nhưng trong Luật BHTG loại này không thuộc đối tượng được bảo hiểm (chỉ có chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu). Vấn đề này, nếu không được hướng dẫn cụ thể sẽ khiến TCTD lúng túng cũng như khó khăn đối với BHTGVN trong việc kiểm tra, xác định chính xác tiền gửi được bảo hiểm. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc tính thừa, thiếu phí BHTG của TCTD.
Việc cấp chứng nhận tham gia BHTG được quy định tại Điều 14 Luật BHTG. Thực tế những năm qua BHTGVN đã thực hiện cấp đổi hang ngàn Chứng nhận tham gia BHTG cho các TCTD(bao gồm cấp lần đầu, cấp bổ sung, cấp lại, cấp đổi trong những trường hợp TCTD thành lập mới) hay thay đổi nội dung hoạt động, thay tên gọi, phục hồi hoạt động hoặc Chứng nhận BHTG bị hư hỏng… và do những thay đổi trong chính sách BHTG. Vì vậy trong văn bản hướng dẫn, các nội dung này cần được quy định cụ thể, làm cơ sở thực hiện.
Về việc thu hồi Chứng nhận BHTG quy định tại Điều 16 Luật BHTG, song chưa đề cập đến trường hợp thu hồi Chứng nhận BHTG đối với đơn vị bị NHNN thu hồi giấy phép hoạt động là đơn vị trực thuộc của TCTD (Chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm). Bên cạnh đó, hồ sơ, trình tự, thủ tục và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc thu hồi Chứng nhận BHTG cũng chưa được quy định cụ thể.
Về việc tính phí BHTG, Điều 21 Luật BHTG quy định, việc nộp thiếu, nộp chậm phí BHTG, tuy nhiên chưa đề cập đến trường hợp chậm nộp phí xuất phát từ nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, như: thiên tai, địch họa, do bên thứ ba, đình công,... Bên cạnh đó, Luật cũng quy định xử phạt vi phạm thời hạn nộp phí BHTGmà chưa quy định xử lý vi phạm nộp thừa, thiếu phí. Điều này, sẽ dẫn đến tình trạng tổ chức tham gia BHTG lợi dụng để tính thiếu phí hoặc để chiếm dụng vốn đối với số phí tính thiếu trong thời gian BHTGVN chưa tiến hành kiểm tra. Những nội dung này cần được hướng dẫn chi tiết tại văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Ngoài ra, Điều 26 Luật BHTG quy định thủ tục trả tiền bảo hiểm, tuy nhiên, hồ sơ đề nghị chi trả chưa quy định rõ ràng, đồng thời các trường hợp nhận tiền theo ủy quyền, tiền thừa kế, tiền gửi của người mất tích cũng chưa được đề cập đầy đủ.
Về chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHTG: thời gian qua tình trạng vi phạm các quy định về BHTG của một số ít tổ chức tham gia BHTG xảy ra thường xuyênvà chậm được khắc phục. Một trong những nguyên nhân cơ bản đó là chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHTG chưa được quy định rõ ràng, cụ thể, nhất là khi BHTGVN -cơ quan trực tiếp thực thi pháp luật về lĩnh vực này không có thẩm quyền xử lý vi phạm, mà chỉ có quyền kiến nghị NHNN xử lý.
Trên cơ sở quy định của Luật BHTG và thực tế triển khai, để pháp luật về BHTG được thi hành một cách hiệu quả, phù hợp, thì các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cần đề cập và hướng dẫn chi tiết các chức năng, nhiệm vụ chính của BHTGVN như: cấp, niêm yết, thu hồi Chứng nhận BHTG; nguyên tắc tính và nộp phí; hạn mức trả tiền bảo hiểm; kiểm tra và giám sát từ xa; vị trí, vai trò của tổ chức BHTG trong quá trình kiểm soát đặc biệt, chi trả và thanh lý, thu hồi; về thông tin tuyên truyền; cung cấp thông tin của tổ chức tham gia BHTG... Những nội dung này là cơ sở quan trọng để BHTGVN triển khai hiệu quả hoạt động và đưa chính sách BHTG sát với thực tiễn cuộc sống. Một vài ý kiến mang tính chủ quan của người viết như sau:
Thứ nhất, Luật BHTG quy định BHTGVN là tổ chức được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Điều này giúp phát huy vai trò, vị thế của BHTGVN phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG. Với tinh thần đó, điều lệ hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN do Thủ tướng phê duyệt, quyết định. đảm bảo tính kế thừa pháp luật BHTG những năm qua, phù hợp với mô hình các tổ chức tương đương như đã đề cập ở trên và đảm bảo quy định tại Nghị định số 99/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/11/2012 về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Thứ hai, để có cơ sở xác định cụ thể tiền gửi được bảo hiểm, làm cơ sở tính phí BHTG chính xác thì các loại tiền gửi được bảo hiểm phải được quy định cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, văn bản hướng dẫn Luật BHTG cần quy định rõ các hình thức “tiền gửi khác” theo quy định của Luật các TCTD. Đồng thời, nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các cơ quan chức năng xem xét bổ sung loại tiền gửi bảo hiểm là trái phiếu chuyển đổi; hướng dẫn loại “tiền gửi khác”, gồm: tiền gửi đảm bảo nghĩa vụ của người gửi tiền như tiền gửi đảm bảo thanh toán séc, đảm bảo thanh toán thẻ; tiền gửi mở thư tín dụng; tiền ký quỹ bảo lãnh, ký quỹ đảm bảo thuê tài chính, ký quỹ đảm bảo các khoản thanh toán khác.
Thứ ba, về phí BHTG, hiện nay đông đảo người dân quan tâm đến Luật BHTG cũng như hoạt động của hệ thống tài chính - ngân hàng và chất lượng của TCTD. Việc quy định khung phí BHTG chung cho hệ thống tổ chức tham gia BHTG là cơ sở để quy định mức phí rủi ro trên cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động của từng TCTD. Vì vậy, khung phí được quy định cần căn cứ trên nguyên tắc, cơ sở cụ thể và thời gian thay đổi khung phí. Việc thay đổi khung phí, mức phí cũng cần quy định khoảng thời gian phù hợp để các đối tượng tham gia, trong đó có BHTGVN và tổ chức tham gia BHTG có điều kiện xây dựng, điều chỉnh phần mềm tính phí. Các văn bản hướng dẫn cần quy định cụ thể cách tính phí để tổ chức tham gia BHTG dễ thực hiện, cũng như xem xét cụ thể các trường hợp: ngày nộp phí BHTG cuối cùng là các ngày nghỉ thì được tính vào ngày làm việc kế tiếp theo, xuất phát từ tính hiệu quả kinh tế khi sử dụng đồng vốn của hầu hết các TCTD trong kinh doanh. Cũng như vậy, trường hợp chậm nộp phí do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, hoặc những khoản nộp phí thiếu hoặc nộp phạt nhỏ dưới 1 triệu đồng được nộp bổ sung vào kỳ nộp phí tiếp theo, trong văn bản hướng dẫn cần quy định phù hợp để tạo thuận lợi cho tổ chức tham BHTG.
Thứ tư, về hoạt động chi trả tiền gửi được bảo hiểm, trong trường hợp TCTD sau thời gian bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt mà không có khả năng phục hồi trở lại hoạt động bình thường, văn bản hướng dẫn thi hành Luật cần quy định cụ thể trách nhiệm của BHTGVN - thành viên Ban Kiểm soát đặc biệt - trong việc kiểm tra, xác định số tiền được chi trả, để chủ động hoàn thiện hồ sơ, thủ tục sớm chi trả, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Đồng thời, cùng với việc quy định cụ thể hồ sơ chi trả tiển bảo hiểm nói chung, văn bản hướng dẫn cần quy định cụ thể thủ tục chi trả tiền bảo hiểm các trường hợp: nhận tiền theo ủy quyền, nhận tiền thừa kế, tiền gửi của người mất tích cũng như quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cho BHTGVN là đơn vị tổ chức hướng dẫn chi tiết thủ tục nhận tiền bảo hiểm.
Thứ năm nhằm thực hiện tốt vai trò của cơ quan kiểm tra, giám sát trên lĩnh vực BHTG của BHTGVN, các văn bản hướng dẫn Luật cần quy định cụ thể, chi tiết nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp thông tin báo cáo của tổ chức tham gia BHTG và NHNN. Đồng thời, quy định rõ, cụ thể hình thức, loại thông tin, số liệu mà các bên cần chia sẻ, cung cấp.
Thứ sáu, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về BHTG, văn bản hướng dẫn cần quy định đầy đủ chế tài xử lý vi phạm và thẩm quyền của BHTGVN trong lĩnh vực này. Vi phạm về BHTG cũng chính là vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Vì vậy, trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHTG cần quy định cụ thể chế tài xử phạt gắn với pháp luật xử phạt hành chính trên lĩnh vực tiền tệ -ngân hàng.
Văn bản hướng dẫn thi hành Luật nếu không được hướng dẫn chi tiết, cụ thể hóa, sẽ dễ dẫn tới việc có nhiều hướng vận dụng, thực hiện khác nhau xuất phát từ sự nhận thức văn bản khác nhau, thậm chí không thể thực hiện. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đối với văn bản pháp luật phải cụ thể, rõ ràng để các đối tượng tham gia được điều chỉnh thống nhất, đúng mục đích yêu cầu của pháp luật và đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn. Xét trên góc độ khác, sự phù hợp với thực tiễn của văn bản pháp luật còn được đánh giá ở hiệu quả kinh tế. Đó là sự hạn chế những chi phí tra soát, tư vấn, thời gian, thậm chí tiền vốn của các bên liên quan khi văn bản được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng. Điều này rất cần được lưu ý trong thời điểm Luật BHTG đang được các cơ quan chức năng xây dựng văn bản hưởng dẫn thi hành.