Bám sát mục tiêu chính sách BHTG, ngay từ những ngày đầu mới hoạt động, trên cơ sở Nghị định 89/NĐ-CP và sau này là Nghị định 109/NĐ-CP, BHTGVN đã nhanh chóng nghiên cứu, triển khai các hoạt động nghiệp vụ BHTG một cách hiệu quả. Cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng và tiến trình hội nhập, nhiều quy định pháp lý về BHTG không còn phù hợp để đảm bảo chính sách BHTG phát huy hiệu quả. Việc phải có Luật BHTG thời điểm này là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu cả về phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và cả người gửi tiền.
Việc ban hành Luật BHTG là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động BHTG ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hoạt động ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn, quyền lợi của người gửi tiền cần được bảo vệ ở mức cao nhất.
Bên cạnh các nội dung được quy định rõ tại Luật (như nguyên tắc BHTG, đối tượng và tiền gửi được bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước về BHTG,…), một số nội dung khác sẽ tiếp tục được Chính phủ hướng dẫn chi tiết. Để Luật BHTG thực sự phát huy tác dụng và đi vào cuộc sống, góp phần vào công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế nói chung, hệ thống ngân hàng nói riêng, xin được đề cập đến một số vấn đề trực tiếp liên quan tới người gửi tiền và các tổ chức tham gia BHTG các nhà làm chính sách cần quan tâm khi ban hành các văn bản hướng dẫn Luật BHTG.
Về hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm
Hạn mức chi trả BHTG có lẽ là vấn đề đầu tiên được người gửi tiền quan tâm, là một trong những thước đo khả năng tạo sự tín nhiệm của người gửi tiền vào hiệu quả của công cụ bảo vệ họ là BHTG. Do đó, đây cũng là yếu tố quan trọng đóng góp vào sự thành công của việc triển khai chính sách BHTG.
Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 Luật BHTG, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm do Thủ tướng chính phủ quy định theo đề nghị của NHNN trong từng thời kỳ. Quy định này thể hiện sự linh hoạt trong công tác điều hành của Chính phủ. Theo đó, việc xác định hạn mức chi trả là bao nhiêu và tần suất thay đổi hạn mức như thế nào sẽ phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế qua từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, từ khi triển khai chính sách BHTG ở Việt Nam (năm 2000) hạn mức chi trả mới chỉ được điều chỉnh 01 lần duy nhất vào năm 2005 (tăng từ mức 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng) và được duy trì cho đến nay. Nghiên cứu hoạt động BHTG ở một số quốc gia đã chỉ ra rằng các yếu tố chủ yếu tác động đến xác định hạn mức chi trả là chỉ số lạm phát và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Kể từ năm 2005, lạm phát ở Việt Nam liên tục tăng cao (nhất là các năm 2008: 23,1%, 2011: 18,6%), điều này làm giảm đáng kể giá trị đồng tiền, khiến cho hạn mức chi trả BHTG tối đa 50 triệu đồng không còn phù hợp. Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, tỷ lệ giữa hạn mức chi trả BHTG so với GDP bình quân đầu người đã bị suy giảm nhiều.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang thực hiện lộ trình tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng. Theo đó, thời gian tới nhiều thương vụ sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng có khả năng sẽ diễn ra nhiều hơn. Việc ổn định tâm lý, giữ vững niềm tin người gửi tiền trong giai đoạn này là vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ để thực hiện thành công chương trình tái cấu trúc Chính phủ đề ra. Chính vì vậy, việc điều chỉnh tăng hạn mức chi trả trong thời điểm hiện nay là cần thiết. Trên thế giới, trong đợt khủng hoảng tài chính vừa qua, ở những quốc gia có hệ thống BHTG đều thực hiện đổi mới chính sách BHTG bằng việc nâng cao hạn mức chi trả vì đây là yếu tố trực tiếp tác động đến quyền lợi người gửi tiền. Tuy nhiên, để điều chỉnh hạn mức chi trả hợp lý, cần lưu ý một số vấn đề sau:
(i) Hạn mức chi trả BHTG phải đáp ứng được nhu cầu của đại đa số người gửi tiền vì đây là cách để duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, cần phải xét đến yếu tố rủi ro đạo đức của các tổ chức nhận tiền gửi.
(ii) Bên cạnh việc xác định một hạn mức chi trả có giới hạn, nên có một cơ chế linh hoạt điều chỉnh hạn mức theo định kỳ hoặc khi có những biến động lớn về kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng ở từng thời điểm, trong đó bao gồm cả khả năng cho phép chuyển đổi sang chi trả không giới hạn (bảo hiểm toàn bộ) trong những tình huống khẩn cấp như khi hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, hay nguy cơ đổ vỡ lan truyền gia tăng.
Về phí BHTG
Điều 20 Luật BHTG không quy định một mức phí hay khung phí cụ thể mà Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN. NHNN căn cứ vào khung phí này để quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Như vậy sau hơn 10 năm hoạt động BHTG được triển khai ở Việt Nam, việc xác định mức phí BHTG theo mức độ rủi ro chính thức được đưa vào Luật.
Mức phí BHTG đồng hạng đang được áp dụng ở Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ cho phát triển hoạt động BHTG trong giai đoạn đầu, củng cố thêm tiềm lực tài chính cho Quỹ nghiệp vụ BHTG để tăng khả năng xử lý khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. So sánh với tiến trình chuyển từ phí đồng hạng sang phí theo rủi ro của một số nước cho thấy, việc chuyển đổi từ phương pháp tính phí BHTG đồng hạng sang phương pháp tính phí theo mức độ rủi ro ở Việt Nam là phù hợp với thông lệ và xu hướng chung. Ở Mỹ, sau gần 60 năm đi vào hoạt động, Tổng công ty BHTG Mỹ (FDIC) thực hiện chuyển đổi sang thu phí theo rủi ro, ở Đài Loan là 15 năm, còn Malaysia là 4 năm. Tuy nhiên, có 1 điểm chung ở các nước khi chuyển đổi sang tính phí theo mức độ rủi ro, đó là hầu hết đều có một thời gian thử nghiệm trước khi áp dụng chính thức. Ví dụ: ở Mỹ thời gian thử nghiệm là 2 năm, Malaysia 4 năm, trong khi ở Đài Loan sau 7 năm đã phải có những điều chỉnh về khung phí cho phù hợp...Điều này là hoàn toàn cần thiết vì thu phí theo mức độ rủi ro liên quan chặt chẽ đến việc đánh giá, xếp hạng, phân loại các tổ chức tham gia BHTG. Trong bối cảnh hiện nay, khi hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đang có nhiều khó khăn, nếu không chuẩn bị thấu đáo sẽ có thể gây ra những phản ứng tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần sự hỗ trợ của công nghệ thông tin như cơ sở dữ liệu, phần mềm chuyên nghiệp, chia sẻ thông tin, vấn đề bảo mật,…
Chính vì vậy, khi chuyển đổi sang phương thức tính phí theo mực độ rủi ro cần có thời gian thử nghiệm, trên cơ sở đó tổng kết, lấy ý kiến của các bên có liên quan như tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG cũng như các cơ quan quản lý trước khi chính thức triển khai. Bên cạnh đó, việc xây dựng khung phí và mức phí BHTG phải đủ để khuyến khích một cách hiệu quả các tổ chức tham gia BHTG hướng tới quản lý rủi ro trong hoạt động tốt hơn. Ngoài ra, cũng nên có một cơ chế linh hoạt trong việc điều chỉnh khung phí hay mức phí nhằm đảm bảo tổ chức BHTG có đủ nguồn vốn để xử lý đổ vỡ trong tình huống có khủng hoảng mang tính hệ thống.
Về cơ chế tiếp cận, chia sẻ thông tin về tổ chức tham gia BHTG
Theo Khoản 10 Điều 13 Luật BHTG quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG thì BHTGVN có trách nhiệm tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. Để làm tròn nhiệm vụ này, BHTGVN cần phải có nguồn thông tin đầu vào đủ để có thể phân tích, đánh giá hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG.
Mặt khác, theo quy định mới của Luật, NHNN có trách nhiệm cung cấp thông tin về tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Chính phủ. Do đó, việc quy định cụ thể về cơ chế chia sẻ thông tin giữa BHTGVN với NHNN, giữa BHTGVN với các tổ chức tham gia BHTG ở các văn bản hướng dẫn Luật trong thời gian tới như thế nào là rất quan trọng để BHTGVN có đủ thông tin đầu vào, trên cơ sở đó có những phân tích, đánh giá chính xác, kịp thời về tình hình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền, góp phần củng cố và ổn định hoạt động hệ thống tài chính ngân hàng.
Tài liệu tham khảo:
-Kinh nghiệm một số nước về xây dựng hệ thống phí bảo hiểm tiền gửi hiệu quả - Tạp chí thông tin BHTGVN số tháng 8/2012.
-Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả;
Luật Bảo hiểm tiền gửi