Theo NHNN, đến ngày 9/6/2022, tín dụng tăng 8,15% so với cuối năm 2021 (cao hơn cùng kỳ năm 2020-2021) và tăng 17,09% so với cùng kỳ năm trước, do cầu tín dụng tăng ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến tích cực hơn của nền kinh tế so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, dư địa để tăng trưởng tín dụng hiện nay còn nhiều so với mức NHNN đã thông báo cho các TCTD.
Công cụ cấp hạn mức tín dụng đã chặn được các cuộc đua lãi suất
Trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XV mới đây, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là vốn đầu tư dựa rất lớn vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Hiện nay, dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức 124% GDP và theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì Việt Nam là nước có tỷ lệ cao nhất trên thế giới.
Cũng theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nước lệ thuộc vốn ngân hàng lớn nhất thế giới. Điều này có nguy cơ rủi ro, nên công cụ cấp hạn mức tín dụng này vừa qua hiệu quả, chặn được các cuộc đua lãi suất, huy động tín dụng cao. Có những năm tín dụng nền kinh tế tăng tới 53,8%.
Theo Thống đốc, khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng hệ thống ngân hàng thì mỗi khi có các cú sốc như Covid-19, như biến động của tình hình kinh tế thế giới mà doanh nghiệp và người dân khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lập tức sẽ ảnh hưởng luôn đến hệ thống ngân hàng, hệ thống ngân hàng mà mất khả năng chi trả... sẽ hệ lụy đến cả nền kinh tế.
Chính vì vậy, lãnh đạo NHNN cho rằng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng được áp dụng từ năm 2011 và NHNN thấy đây là một biện pháp rất hiệu quả trong tổ chức điều hành, chính vì vậy mới đưa thị trường tiền tệ tín dụng ổn định trở lại.
"Trước đây, trong thời gian không có kiểm soát về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng này thì các ngân hàng, các TCTD tăng trưởng tín dụng rất cao, có nhiều năm tăng trưởng tín dụng trên 30%/năm, cá biệt có những năm tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống lên đến 53,8%, như vậy sẽ tạo ra cuộc đua lãi suất để huy động được nguồn tiền để cho vay... " - Thống đốc trả lời.
Về cách thức cấp hạn mức, Thống đốc cho biết, thường là đầu năm trên cơ sở chỉ tiêu lạm phát cũng như GDP của Quốc hội, sẽ đưa ra một chỉ tiêu định hướng cho cả năm và chỉ tiêu này có thể sẽ được điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn. TCTD nào có tình hình lành mạnh, quản trị tốt hơn thì được tăng trưởng tín dụng cao hơn.
Cụ thể, việc thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với TCTD được thực hiện theo nguyên tắc TCTD có mức xếp hạng tốt, tình hình hoạt động an toàn, lành mạnh hơn được phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn, qua đó thúc đẩy TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động và chỉ số an toàn hoạt động. Bên cạnh đó, NHNN cũng xem xét một số yếu tố như tiếp tục giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp đảm bảo thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN về tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro... để làm cơ sở phân bổ/điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho TCTD.
Về các giải pháp điều hành tín dụng, phương châm điều hành tín dụng của NHNN là tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Theo đó, NHNN chỉ đạo các TCTD thực hiện tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN giao từ đầu năm nhằm đảm bảo kiểm soát tín dụng toàn hệ thống theo mục tiêu định hướng trong điều kiện tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, cân nhắc yếu tố rủi ro lạm phát và định hướng kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống; qua đó góp phần hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và tình hình thị trường để có giải pháp điều hành phù hợp.
Từ năm 2011, chính sách tiền tệ và tín dụng được NHNN điều hành thận trọng để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giảm dần áp lực cân đối vốn cho nền kinh tế lên hệ thống ngân hàng, kích thích vai trò tự chủ cân đối vốn trung dài hạn cho nền kinh tế của các phân khúc thị trường tài chính. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp chính sách tiền tệ bao gồm kiểm soát tăng trưởng tín dụng từ đó đến nay đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; cụ thể: Tín dụng tăng trưởng dưới 20%/năm (thấp hơn các giai đoạn trước) nhưng đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cung ứng đủ, kịp thời vốn, phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế, đưa lạm phát giảm dần từ mức 2 con số năm 2012 và duy trì ổn định dưới 4% từ năm 2015 đến nay; Nâng cao mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng, cải thiện năng lực quản trị điều hành của TCTD tiệm cần dần thông lệ quốc tế.
Thực tiễn Việt Nam, do thị trường vốn, chứng khoán còn chưa phát triển đúng với vai trò, vị thế của mình, nên việc cân đối vốn cho nền kinh tế (đặc biệt là vốn trung và dài hạn) vẫn dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, từ đó tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản lớn đối với hệ thống ngân hàng (huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn), kéo theo sức ép và rủi ro lớn lên hệ thống TCTD. Hiện nay, tỷ lệ tín dụng/GDP tại Việt Nam rất cao và có xu hướng tăng, quy mô tín dụng rất lớn (đến 06/3/2022 là trên 11,28 triệu tỷ đồng). Do đó, tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô và gia tăng rủi ro đối với hệ thống TCTD, ảnh hưởng đến an toàn hoạt động ngân hàng. Đây cũng là bài học kinh nghiệm đắt giá đối với ngành ngân hàng sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng, dẫn đến những hệ lụy phải xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD và vẫn còn kéo dài cho đến nay. Đồng thời, rủi ro nợ xấu gia tăng do diễn biến phức tạp và tác động tiêu cực của dịch Covid-19. Trong bối cảnh đó, nếu để TCTD tự tăng trưởng tín dụng mà không có biện pháp kiểm soát phù hợp, sẽ gây bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh rủi ro lạm phát gia tăng.
Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu phát sinh, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng theo hướng điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng TCTD.
Điều hành lãi suất, tín dụng còn nhiều thách thức trong năm 2022
Năm 2022, áp lực lạm phát trong nước tăng nhanh đến từ cả yếu tố chi phí đẩy và tác động trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng từ năm 2020.
Cụ thể, trong bối cảnh xu hướng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương trên thế giới, nhiều nước đã dự kiến lộ trình thu hẹp nới lỏng tiền tệ. Trong các tháng đầu năm 2020, Fed đã điều chỉnh tăng 2 lần lãi suất mục tiêu: ngày 16/3/2022 tăng 0,25%/năm, ngày 4/5/2022 tăng 0,5%/năm, hiện ở mức 0,75-1%/năm nhằm đối phó với mức lạm phát tăng cao và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Bên cạnh đó, chiến sự Nga-Ukraine và chính sách Zero Covid của Trung Quốc khiến giá hàng hóa thế giới gia tăng, vượt xa mọi dự báo trước đây khiến chi phí đầu vào tăng mạnh, tạo áp lực lạm phát chi phí đẩy (lạm phát nhập khẩu).
Trong nước, lạm phát có xu hướng gia tăng do giá nguyên vật liệu thế giới tăng, chi phí vận chuyển tăng, nguồn cung gián đoạn và tác động trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng từ năm 2020, việc một số ngân hàng thương mại trong nước điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi trong thời gian qua cũng đã tác động lên tâm lý thị trường và gây sức ép lên lãi suất cho vay do nhu cầu tín dụng tăng cao nhằm đáp ứng cho tăng trưởng kinh tế phục hồi trở lại.
Với bối cảnh nêu trên và xu hướng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương sẽ gây áp lực lớn đối với việc điều hành lãi suất, tín dụng của NHNN để vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế, nhưng phải đảm bảo kiểm soát lạm phát. Đồng thời, theo khuyến nghị của IMF đối với kinh tế Việt Nam, trường hợp lạm phát liên tục tăng đòi hỏi chính sách tiền tệ phải chuyển sang thích ứng linh hoạt, thắt chặt để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong những năm tới thì các giải pháp hỗ trợ phục hồi kinh tế cần tập trung vào chính sách tài khóa.
Do đó, trong thời gian tới, căn cứ mục tiêu Chính phủ và các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022 tại Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2022 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của các TCTD. Theo đó, NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến vĩ mô, tình hình lạm phát để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp; điều hành tăng trưởng tín dụng theo định hướng cả năm (14%) và điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế; tiếp tục chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:
(i) NHNN theo dõi sát kinh tế vĩ mô, diễn biến thị trường tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của TCTD để điều hành linh hoạt, chủ động nghiệp vụ thị trường mở nhằm hỗ trợ thanh khoản cho TCTD, ổn định thị trường tiền tệ và góp phần kiểm soát lạm phát. Tiếp tục điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; khuyến khích TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để phấn đấu giảm lãi suất cho vay hỗ trợ nền kinh tế.
(ii) Tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về tín dụng ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tế;
(iii) Chỉ đạo các TCTD khẩn trương triển khai kịp thời chính sách hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN của NHNN. Được biết, ngày 08/6/2022, NHNN đã có có Công văn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính về việc đăng ký dự toán ngân sách nhà nước năm 2022, 2023 thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/NĐ-CP, đồng thời có các Thông báo về hạn mức hỗ trợ lãi suất dự kiến năm 2022 theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN gửi tới các NHTM có liên quan;
(iv) Điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp theo hướng mở rộng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro;
(v) Tiếp tục đánh giá hoạt động tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, vai trò, khả năng phục hồi, phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế để chỉ đạo các TCTD có chính sách ưu tiên, hỗ trợ và tập trung tín dụng nhằm góp phần khôi phục và phát triển kinh tế. Phối hợp với các bộ, ngành tháo gỡ vướng mắc trong việc triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
(vi) Tiếp tục chỉ đạo TCTD triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; phối hợp Bộ Lao động-Thương binh và xã hội tổng kết, đánh giá chương trình cho vay người sử dụng lao động để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết 68/NQ- CP;
(vii) Chỉ đạo các TCTD tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; Tăng cường phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng- doanh nghiệp; Triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực. Kịp thời phối hợp các Bộ, ngành liên quan xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện;
(viii) Đẩy mạnh triển khai nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG xây dựng nông thôn mới, CTMTQG giảm nghèo bền vững, CTMTQG phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số) theo Quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền. Hỗ trợ và tạo điều kiện để các TCTD, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.