Sau khủng hoảng tài chính năm 2007, đồng thời để dần xóa bỏ các phương thức quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, chuyển sang quản lý thông qua các công cụ kinh tế và để giảm thiểu gánh nặng chi phí tài chính khi có khủng hoảng cho Chính phủ, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 07/7/2000. Tuy nhiên, do hạn chế về cơ sở pháp lý, năng lực tài chính, trình độ cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật… nên BHTGVN hầu như hoạt động theo mô hình chi trả và bộc lộ nhiều hạn chế
Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội và môi trường tài chính toàn cầu hiện nay, việc lựa chọn và tổ chức vận hành một mô hình BHTG phù hợp có vai trò quan trọng đặc biệt. Theo nhận định chung, mô hình BHTG tốt nhất đối với Việt Nam hiện nay là mô hình giảm thiểu rủi ro, cho phép BHTGVN quản lý rủi ro một cách toàn diện nhất, đảm bảo hoạt động an toàn lành mạnh của các tổ chức tham gia BHTG. Mô hình này cho phép BHTGVN cung cấp hỗ trợ tài chính để giải quyết các ngân hàng đang gặp khó khăn trong điều kiện tối thiểu hóa tổn thất cho tổ chức tham gia BHTG; có quyền đặt ra các quy định xử lý ngân hàng bị đổ vỡ; có quyền tiếp nhận, thanh lý các tài sản và giải quyết các nghĩa vụ nợ của những ngân hàng bị đổ vỡ; tham gia vào tái thiết hệ thống tài chính ngân hàng.
Để tăng cường năng lực giám sát và thẩm quyền của tổ chức BHTG, sự độc lập về mặt pháp lý của tổ chức BHTG cũng là yếu tố quan trọng. Mục đích của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Do vậy, khi tổ chức BHTG được độc lập thì hiệu quả của chính sách BHTG mới được củng cố và ngày càng được nâng lên. Theo khuyến nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI) “một hệ thống BHTG được thiết kế cẩn trọng sẽ góp phần xây dựng lòng tin của công chúng trong hệ thống tài chính và nhờ vậy có thể hạn chế ảnh hưởng xấu gây ra bởi những ngân hàng gặp khó khăn”.
Để nâng cao hiệu lực pháp lí trong lĩnh vực BHTG, việc xây dựng và sớm ban hành Luật BHTG để BHTG Việt Nam có thể hoạt động với mô hình giảm thiểu rủi ro, với những chức năng và quyền hạn mở rộng là điều cần thiết. Dự Thảo án Luật BHTG trình lấy ý kiến của các đại biểu quốc hội kỳ này, sẽ nhấn mạnh một số trọng tâm chính sau:
Thứ nhất, mục tiêu lớn nhất của Luật BHTG là bảo vệ tốt nhất người gửi tiền và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Theo Ông Vũ Nhữ Thăng – Viện trưởng Viện Chiến lược tài chính (Bộ Tài chính) thì Luật BHTG là đạo luật rất quan trọng, việc soạn thảo nó nên có một tầm nhìn xa về sự phát triển rất nhanh của các định chế tài chính và phải là một đạo luật phản ánh thực chất nhu cầu của phát triển. Tổ chức BHTG cần phải có một tiềm lực tài chính đủ lớn để có thể gánh vác, xử lý khi rủi ro xảy ra. Đồng thời, cần tạo lập cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa tổ chức BHTG với Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác. Cần tăng cường chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm, hợp tác với nhau để đảm bảo cho công tác giám sát được nhìn từ nhiều góc độ, khía cạnh và thấy được các rủi ro rõ hơn, kịp thời hơn.
Thứ hai, cần đổi mới cơ chế BHTG, ví như vấn đề tại sao không bảo hiểm ngoại tệ? Chúng ta bảo hiểm đồng Việt Nam dưới góc độ là tài sản của người dân thì đồng USD cũng là tài sản và được giao dịch hợp pháp tại các tổ chức tín dụng cũng phải được bảo hiểm chứ. Bảo hiểm đối với tiền gửi là ngoại tệ là cần thiết vì khi nào Nhà nước cho phép huy động bằng ngoại tệ thì tiền gửi ngoại tệ là hợp pháp và cần được bảo vệ. Có ý kiến cho rằng điều đó ảnh hưởng đến chính sách đô la hóa, tuy nhiên việc chống đô la hóa bằng nhiều chính sách chứ không chỉ phụ thuộc vào việc bảo vệ tiền gửi bằng ngoại tệ.
Thứ ba, tổ chức BHTG phải có vốn đủ mạnh. Bàn về vấn đề này, ông Lê Xuân Nghĩa – Phó Chủ tịch UBGSTC QG cho rằng khi xây dựng Luật BHTG, cần tham khảo kỹ các bộ luật BHTG của các nước, tìm ra những gì tinh túy của họ phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Trong đó, mô hình tổ chức BHTG hiệu quả, là mô hình tổng công ty đặc biệt, độc lập, có vốn đủ mạnh. Thời nay không có vốn lớn không thể bảo hiểm được cho các định chế tài chính. Những chức năng, nhiệm vụ khác cũng trên nền tảng tài chính phải mạnh. Như vậy, về dài hạn, cần bổ sung nguồn vốn cho tổ chức BHTG để đảm bảo an toàn hệ thống theo thông lệ quốc tế (Quỹ BHTG của tổ chức BHTG phải đảm bảo tỷ lệ từ 1,5%-5% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm). Tỷ lệ này ở Việt Nam mới chỉ đạt xấp xỉ 1%.
Cuối cùng, cần tăng hạn mức BHTG. Hạn mức tiền gửi được bảo hiểm tối đa 50 triệu đồng hiện tại là quá thấp và mức này đã được quy định từ năm 2005, với tốc độ lạm phát và quy mô phát triển của nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta nó trở nên quá nhỏ bé trong điều kiện hiện nay. Chia xẻ vấn đề này, ông Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện KTVN cho rằng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi bấp bênh và ẩn chứa nhiều rủi ro, nền kinh tế trong nước vừa mới thoát ra khỏi đáy của cuộc khủng hoảng và đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng thì việc củng cố lòng tin của người gửi tiền là thực sự cần thiết. Một trong các biện pháp trước mắt là nâng hạn mức bảo hiểm cho người gửi tiền khi nền kinh tế gặp khó khăn nhằm tăng niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng.