Trường hợp phải kéo dài quá thời hạn thanh lý thì Hội đồng thanh lý (HĐTL) phải báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh và chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố để được gia hạn thanh lý. Việc gia hạn thanh lý do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, thời gian gia hạn từng lần không quá 06 tháng.
Để đẩy nhanh tiến độ thanh lý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã có Chỉ thị số 01/2008/CT-NHNN ngày 29/01/2008 về tăng cường chỉ đạo thanh lý đối với các QTDND cơ sở. Tuy nhiên, sau gần chín năm triển khai, mặc dù Ngân hàng Nhà nước và chính quyền địa phương ở những nơi có QTDND cơ sở bị giải thể, phá sản đã cố gắng tập trung chỉ đạo, đôn đốc nhưng hiệu quả thanh lý vẫn còn thấp, biểu hiện là công tác thu hồi nợ tiến triển chậm, có biểu hiện trì trệ, tình trạng thời gian thanh lý kéo dài, cơ quan quản lý có thẩm quyền phải gia hạn thanh lý nhiều lần.
Một thực tế cho thấy tại Chi nhánh BHTGVN khu vực Đông Bắc Bộ, ngay từ đầu công tác thanh lý các QTDND cơ sở đã được triển khai khá bài bản theo chỉ đạo của Ban lãnh đạo Chi nhánh. Tuy nhiên, do những khó khăn chung nên kết quả thanh lý đến nay vẫn chưa đạt được như mong muốn, nhất là trong 2 năm trở lại đây. Theo số liệu báo cáo, trong tổng số 20 HĐTL QTD trên địa bàn mà Chi nhánh theo dõi mới chỉ có 2 HĐTL hoàn trả hết số tiền cho BHTGVN ( hiện 02 HĐTL đã kết thúc thanh lý), còn tới 18 HĐTL đang hoạt động và đã phải gia hạn nhiều lần. So với thời hạn 6 tháng theo quy định thì thời gian tồn tại của các HĐTL trên địa bàn đều quá dài và không mang lại hiệu quả thực sự. Bên cạnh đó số tiền thu hồi được về cho BHTGVN cũng ngày một giảm (năm 2003 thu được 1021 triệu đồng; năm 2005 thu được 820 triệu đồng; năm 2006 thu được 638 triệu đồng; năm 2007 thu được 125 triệu đồng; năm 2008 chỉ thu được 19.8 triệu đồng).
Để thu hồi tiền đã chi trả về cho BHTGVN, các Chi nhánh BHTGVN thường xuyên làm việc với Tổ giám sát thanh lý Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các tỉnh để nắm tình hình kết quả thanh lý; cử cán bộ trực tiếp tham gia vào các HĐTL thường xuyên bám sát tình hình hoạt động, phân tích kỹ nợ phải thu, phải trả để tư vấn cho HĐTL có biện pháp xử lý phù hợp; đôn đốc các HĐTL tích cực thu hồi các khoản phải thu trong thanh lý. Trong quá trình thanh lý, một số HĐTL đã thu hồi được nợ song cố tình dây dưa chưa chịu nộp trả cho BHTGVN, các Chi nhánh đã phối hợp tích cực với Ngân hàng Nhà nước tỉnh và chính quyền địa phương để yêu cầu các HĐTL nộp trả tiền cho BHTG VN. Đối với những HĐTL chưa thực hiện đúng trật tự ưu tiên khi thanh toán các khoản phải trả trong thanh lý theo Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN ngày 06/6/2006 của Thống đốc NHNN Việt Nam, Chi nhánh đã có văn bản gửi Ban chỉ đạo xử lý thanh lý QTD và Chi nhánh NHNN tỉnh để có biện pháp chỉ đạo yêu cầu HĐTL thực hiện thanh toán theo đúng quy định.
Nguyên nhân dẫn đến công tác thanh lý các QTDND cơ sở kém hiệu quả thì có nhiều, song cơ bản tập trung ở các nguyên nhân chính sau:
(1) Phần lớn các khoản phải thu là nợ cho vay khó đòi không còn khả năng thu đã quá hạn nhiều năm từ trước khi QTD thực hiện thanh lý, những khoản nợ này do người vay quá nghèo, làm ăn thua lỗ hoặc gặp khó khăn dẫn đến không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, số ít đối tượng có khả năng trả nợ nhưng chây ỳ không chịu trả.
(2) Những quy định cũng như cơ chế liên quan đến công tác thanh lý còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đầy đủ, rõ ràng, trách nhiệm và quyền lợi của thành viên HĐTL chưa được quy định cụ thể. Một thực tế cho thấy, các Chủ tịch HĐTL chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm, nên chỉ một số ít HĐTL hoạt động tương đối hiệu quả, còn lại đa phần các HĐTL đều hoạt động thiếu tích cực, cầm chừng, gần như chỉ tồn tại mang tính chất hình thức.
(3) Chế độ thù lao cho HĐTL chưa thỏa đáng, chưa khuyến khích, động viên HĐTL tích cực trong việc thu hồi nợ. Hiện nay quy định về mức chi bồi dưỡng cho công tác thanh lý các QTDND bị giải thể, phá sản được thực hiện theo thông tư số 105/2004/TT-BTC ngày 09/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Theo đó, khi thu hồi được các khoản nợ quá hạn khó đòi, HĐTL được để lại 10%, nhưng tối đa không quá 10 triệu đồng, để chi cho các tổ chức có tư cách pháp nhân và các thành viên Hội đồng thanh lý có đóng góp tích cực trong việc thu hồi nợ theo nguyên tắc:
- Chi 70% số tiền được để lại cho các tổ chức có tư cách pháp nhân có đóng góp trong việc thu hồi các khoản nợ quá hạn khó đòi.
- 30% số tiền còn lại HĐTL căn cứ vào mức độ đóng góp của các thành viên hội đồng để chi cho phù hợp.
Trong khi các món nợ khó đòi của 37 QTD đang trong quá trình thanh lý trên cả nước đang được BHTGVN theo dõi hầu hết là các món vay nhỏ từ 1 triệu đến 20 triệu đồng. Như vậy các HĐTL nếu thu hồi được các món vay này sẽ được trích lại từ 30.000đ đến 600.000đ để chi cho các thành viên tùy theo mức độ đóng góp. Mức này là quá thấp, không khuyến khích được các thành viên trong việc thu hồi nợ.
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh lý các QTD bị giải thể, phá sản
Để nâng cao hiệu quả của công tác này cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại Chỉ thị số 01/2008/CT_NHNN, theo đó các Chi nhánh NHNN cần: i) tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát thanh lý QTD; ii) thường xuyên nắm bắt diễn biến tiến độ thu hồi nợ, chi trả và những vấn đề phát sinh trong quá trình thanh lý để có biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ thanh lý Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn. Cần củng cố, kiện toàn bộ máy hoạt động của HĐTL. Đánh giá, rút kinh nghiệm những nội dung công việc đã triển khai trong quá trình thực hiện thanh lý nhưng chưa hiệu quả hoặc hiệu quả còn thấp và chưa đạt kế hoạch đề ra, từ đó đôn đốc chỉ đạo tăng cường trách nhiệm của các cá nhân và tập thể trong HĐTL trong quá trình thực hiện thanh lý.
Thứ hai, có cơ chế tài chính phù hợp mang tính khuyến khích đối với các HĐTL trong quá trình thu nợ, khen thưởng thích hợp đối với những HĐTL thực hiện tốt việc thu hồi nợ nhất là những món nợ khó đòi.
Thứ ba, trên cơ sở phân loại các khoản nợ phải thu, những trường hợp không thu được nợ do người vay dây dưa, chây ỳ hoặc những khoản vay có tài sản đảm bảo cần phối hợp với các cơ quan pháp luật có chế tài mạnh để xử lý yêu cầu người vay trả nợ.
Thứ tư, cần rà soát lại tình hình hoạt động của các HĐTL. Đối với những HĐTL hoạt động cầm chừng do thành viên thiếu tích cực cần cơ cấu kiện toàn lại tổ chức cho phù hợp; đối với những HĐTL đã tồn tại quá lâu mà hoạt động không có hiệu quả cần có giám sát và xem xét thực tế. Nếu các khoản nợ không còn khả năng thu hồi nên xem xét đề nghị cấp thẩm quyền cho kết thúc thanh lý.
Thứ năm, đối với những QTD đã bị phá sản giải thể có tài sản còn lại, cần khẩn trương xử lý tài sản của quỹ để lấy nguồn thanh toán các khoản phải trả, trường hợp tài sản chưa đảm bảo về thủ tục pháp lý, đề nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền hỗ trợ hoàn thiện đầy đủ các thủ tục để có thể xử lý tài sản nhanh chóng.
Thứ sáu, về lâu dài để hạn chế tối đa những trường hợp đổ vỡ không đáng có của các tổ chức tín dụng nói chung và các QTDND cơ sở nói riêng, tránh phải xử lý sau giải thể, phá sản; giảm thiểu tác động tiêu cực của việc đổ vỡ này đến an ninh trật tự xã hội cần xây dựng cơ chế xử lý chuyên nghiệp theo cơ chế thị trường (thông qua các nghiệp vụ tiếp nhận và xử lý, mua bán nợ, ngân hàng bắc cầu…), giao cho tổ chức có vai trò và khả năng thích hợp làm đầu mối để giải quyết, giảm khả năng rủi ro đến mức thấp nhất.