Giảm lãi suất, nới room tín dụng – sẵn sàng cung ứng vốn cho nền kinh tế
Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Theo đó, NHNN đã điều hành để duy trì thanh khoản dồi dào, sẵn sàng cung ứng vốn cho phục hồi và phát triển kinh tế.
Trong điều hành lãi suất, thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân. NHNN đã điều chỉnh giảm 4 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm. Cụ thể: (i) Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6%/năm xuống 4,5%/năm; Lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3,0%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm từ 7%/năm xuống 5,0%/năm. (ii) Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng, tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,5%/năm, tiền gửi kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng giảm từ 6%/năm xuống 4,75%/năm. (iii) Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5,5%/năm xuống 4,0%/năm.
Việc liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ. Qua đó, tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN cũng là một trong những ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới điều chỉnh giảm lãi suất điều hành trong các tháng đầu năm 2023.
Theo báo cáo tuần của các ngân hàng thương mại (NHTM), lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới có xu hướng giảm. Đến ngày 9/6/2023, lãi suất tiền gửi bình quân ở mức 5,7%/năm, giảm khoảng 0,7% so với cuối năm 2022. Lãi suất cho vay bình quân ở mức 8,9%/năm, giảm khoảng 1,0%/năm so với cuối năm 2022.
Trong điều hành tín dụng, từ đầu năm 2023, căn cứ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Quốc hội, Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15%, có điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm thấp hơn so với kịch bản đề ra, các nguồn vốn nền kinh tế gặp khó khăn, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng; song song với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, công cụ CSTT khác, NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát.
Việc điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD được NHNN thực hiện trên cơ sở đề nghị của TCTD, tình hình hoạt động, năng lực tài chính, quản trị điều hành và khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của từng TCTD, đảm bảo thanh khoản và an toàn hoạt động của hệ thống TCTD. Theo đó, ngày 10/7/2023 NHNN đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2023 cho các TCTD với mức giao toàn hệ thống khoảng 14%.
Ngoài ra, NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn (Thông tư 02). Qua đó, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp tục quay vòng vốn và tiếp cận vốn vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh, có nguồn tài chính để tìm kiếm việc làm, nguồn thu nhập mới để trả nợ vốn vay tại các tổ chức tín dụng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng, để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi vay vốn TCTD, qua đó góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen”, thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp: (i) Triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; (ii) Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn…; (iii) Kịp thời ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 50/NQ-CP và Nghị quyết 59/NQ-CP…
Đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,4 triệu tỷ đồng, tăng 4,73% so với cuối năm 2022. Trong đó, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, theo chủ trương của Chính phủ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cả nước. Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát.
Một trong những nguyên nhân tín dụng tăng chậm là do cầu tín dụng của nền kinh tế giảm. Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế, trong khi nhiều nền kinh tế lớn, trong đó có các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại, thậm chí rơi vào suy thoái, lạm phát cao, nhu cầu thương mại, đầu tư giảm, đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì vậy, trong bối cảnh khó khăn chung, cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm, dẫn tới cầu tín dụng giảm tương ứng.
Bên cạnh đó, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn/hoặc còn vướng mắc về thủ tục pháp lý.
Mặt khác, sau thời gian dài nền kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, nhất là khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả trong bối cảnh hiện nay (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu ở mức cao, trong khi thị trường đầu ra khó khăn, đơn hàng, doanh thu giảm…). Một số khách hàng chưa kịp thời phục hồi sau giai đoạn dịch Covid-19, đã phát sinh nợ xấu/nợ quá hạn, nên các TCTD phải thận trọng trong quyết định cho vay do không thể hạ chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.
Giảm lãi suất không phải là vấn đề quan trọng nhất trong hỗ trợ tăng trưởng
Theo các chuyên gia, suy giảm tổng cầu của nền kinh tế là trở lực lớn nhất khiến GDP chỉ đạt tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mục tiêu. Đặc biệt, thấy rõ cả 3 động lực từ phía cầu (tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu) đều suy yếu.
TS. Johnathan Picus, Chuyên gia Kinh tế trưởng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) cho rằng, Việt Nam dựa quá nhiều vào chính sách tiền tệ để kích cầu. Việc nới lỏng chuẩn cho vay và hạ thấp lãi suất làm giảm chất lượng tài sản, có nguy cơ tạo ra bong bóng tài sản. Trong khi đó, các công cụ tài khoá chưa được sử dụng đúng mức làm chậm tăng trưởng cầu trong thời kỳ suy thoái và gây ra lạm phát trong thời kỳ tăng trưởng (chính sách tài khoá là thuận chu kỳ). Lấy ví dụ tại Thái Lan, TS. Johnathan Picus cho biết, chính sách tài khoá của nước này đáp ứng với đại dịch hiệu quả hơn so với Việt Nam.
Theo PGS.TS Tô Trung Thành, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trong 6 tháng đầu năm, để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, Chính phủ đã ban hành các chính sách thiên về tiền tệ như hạ lãi suất, tín dụng. Thế nhưng về phía tổng cung, có thể thấy doanh nghiệp vẫn khó khăn. Điều này phản ánh mức hấp thụ của doanh nghiệp đang khá kém, nên việc giảm lãi suất không phải là vấn đề quan trọng nhất trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Nếu quá lạm dụng các chính sách tiền tệ, trong khi khu vực doanh nghiệp yếu để hấp thụ tín dụng, có thể dẫn đến không thúc đẩy được sản xuất của doanh nghiệp, mà còn có thể ảnh hưởng đến tính ổn định của kinh tế vĩ mô, cũng như rủi ro của hệ thống tài chính tiền tệ.
Thời gian tới, nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, về phía NHNN và ngành ngân hàng tiếp tục điều hành tín dụng theo hướng tăng thanh khoản cho nền kinh tế; cung ứng vốn tín dụng, tạo thuận lợi trong tiếp cận tín dụng nhưng không hạ chuẩn cấp tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí để có điều kiện tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho khách hàng. Tích cực triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng từ nguồn vốn của các ngân hàng thương mại với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1,5%-2% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Phối hợp các Bộ, ngành, địa phương, các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp đẩy mạnh triển khai chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, hội nghị tín dụng chuyên đề. Đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách hỗ trợ lãi suất 2% đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Tuy nhiên, để tăng sức hấp thụ vốn của nền kinh tế, ngoài những giải pháp từ ngành ngân hàng, các bộ, ngành, cần tiếp tục đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ, qua đó nâng cao năng lực cho người vay vốn, từ đó tăng khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng, đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng.
PGS.TS Tô Trung Thành cho rằng, trong giai đoạn tiếp theo, bên cạnh chính sách tiền tệ, cần quan tâm và tập trung hơn nữa đến chính sách tài khoá.
Trên thực tế, Chính phủ đã có nhiều chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp, điển hình như giảm thuế, hạ chi phí đầu vào khác. Song, các chính sách tài khoá sẽ có độ trễ so với chính sách tiền tệ.
Về dài hạn, khi nguồn lực của nền kinh tế còn khó khăn như hiện nay, theo các chuyên gia, một trong những động lực tăng trưởng tốt trong thời gian tới là sử dụng công nghệ và kinh tế số. Nghiên cứu của Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, hiện nay kinh tế số chiếm tỷ trọng tương đối thấp, khoảng 9,6% trong GDP nền kinh tế, trong khi kế hoạch đến năm 2025 chiếm khoảng 20% và đến 2030 chiếm 25%.
Về phía khách hàng vay vốn cũng cần tích cực thực hiện các biện pháp tái cấu trúc, cắt giảm những hoạt động kinh doanh không hiệu quả… để các TCTD có cơ sở thẩm định, quyết định cho vay cũng như tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu…