Chi tiết quy trình của việc áp dụng can thiệp sớm như sau: căn cứ các tài liệu, thông tin, dữ liệu về tình hình hoạt động của đối tượng giám sát và phân tích, đánh giá của đơn vị thực hiện giám sát, Thống đốc NHNN xem xét áp dụng can thiệp sớm đối với tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài lâm vào một trong các trường hợp theo quy định tại khoản 1, khoản 2, điều 130a Luật các TCTD (không duy trì được tỷ lệ khả năng chi trả, không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn quy định, xếp hạng dưới mức trung bình theo quy định của NHNN).
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản can thiệp sớm của NHNN, đối tượng giám sát có trách nhiệm gửi báo cáo cho NHNN (qua đơn vị thực hiện giám sát) giải trình thực trạng, nguyên nhân, phương án khắc phục và kế hoạch triển khai thực hiện phương án khắc phục. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được phương án khắc phục, đơn vị thực hiện giám sát có trách nhiệm đánh giá, trình Thống đốc NHNN ban hành văn bản chấp thuận phương án khắc phục của đối tượng giám sát. Trong quá trình đánh giá, nếu xét thấy cần thiết, đơn vị thực hiện giám sát trình Thống đốc NHNN ban hành văn bản yêu cầu đối tượng giám sát điều chỉnh, bổ sung phương án khắc phục.
Điểm tiến bộ trong thông tư quy định về các biện pháp giám sát ngân hàng hiện nay là bên cạnh phương pháp giám sát tuân thủ, đã có các quy định khung về giám sát rủi ro. |
Văn bản chấp thuận của Thống đốc NHNN phải bao gồm thời hạn thực hiện phương án khắc phục (tối đa là một năm kể từ ngày có văn bản áp dụng can thiệp sớm), hình thức thực hiện và tần suất báo cáo về tiến độ, kết quả thực hiện phương án khắc phục.
Trường hợp đối tượng giám sát không xây dựng được phương án khắc phục hoặc sau thời hạn thực hiện phương án mà không khắc phục được, tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, đơn vị thực hiện giám sát trình Thống đốc NHNN áp dụng một hoặc một số biện pháp quy định tại khoản 4 điều 130a Luật các TCTD (gồm: a) Thu hẹp nội dung, phạm vi hoạt động, hạn chế các giao dịch lớn; b) Tăng vốn điều lệ, vốn được cấp; tăng cường nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao; bán, chuyển nhượng tài sản và thực hiện các giải pháp khác để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; c) Hạn chế chi trả cổ tức, phân phối lợi nhuận; d) Cắt giảm chi phí hoạt động, chi phí quản lý; hạn chế trả thù lao, lương, thưởng đối với người quản lý, người điều hành...).
Ngoài ra, điều 19 Thông tư 04 cũng bổ sung thêm điều 19a quy định về việc theo dõi, đôn đốc, đánh giá thực hiện phương án khắc phục của đối tượng giám sát ngân hàng. Theo đó, trong quá trình theo dõi, căn cứ vào kết quả thực hiện phương án khắc phục, đơn vị thực hiện giám sát có quyền đề xuất tiến hành thanh tra đột xuất. Căn cứ kết luận thanh tra, đơn vị thực hiện giám sát trình Thống đốc NHNN có văn bản yêu cầu đối tượng giám sát bổ sung một hoặc một số biện pháp quy định tại khoản 4, điều 130a Luật các TCTD.
Về cơ bản, việc bổ sung thêm biện pháp can thiệp sớm vào các biện pháp giám sát ngân hàng là vô cùng cần thiết. Nó thể hiện tư duy “chữa bệnh sớm” ngay khi phát hiện triệu chứng chứ không đợi đến khi “bệnh nặng hẳn” mới chữa trị. Bằng cách đó, chi phí (cả thời gian và tiền bạc) để khắc phục những yếu kém của TCTD sẽ được giảm thiểu, đồng thời góp phần hạn chế rủi ro cho toàn hệ thống. Sự phát triển của khu vực ngân hàng và thị trường tài chính với hàng loạt loại hình dịch vụ hiện đại kéo theo không ít những rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy, hoạt động giám sát phải được xem là phương thức thanh tra, giám sát chủ yếu bởi tính tích cực của nó trong việc cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hoạt động đối với toàn bộ hệ thống nói chung và từng TCTD nói riêng.
Hơn thế nữa, khung pháp lý liên quan đến việc giám sát này cũng cần được nghiên cứu, cập nhật, bổ sung liên tục nhằm theo kịp với thực tế của hoạt động ngân hàng. Điểm tiến bộ trong thông tư quy định về các biện pháp giám sát ngân hàng hiện nay là bên cạnh phương pháp giám sát tuân thủ, đã có các quy định khung về giám sát rủi ro để có thể từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế tốt nhất về giám sát ngân hàng, tạo điều kiện cho đơn vị thực hiện giám sát có thể kết hợp giữa giám sát tuân thủ với giám sát rủi ro.
Nếu như giám sát tuân thủ tập trung vào việc kiểm tra và theo dõi vấn đề tuân thủ của các TCTD đối với quy định pháp luật liên quan tới an toàn hoạt động ngân hàng thì giám sát rủi ro dựa trên việc giám sát hoạt động chung của TCTD thông qua việc đánh giá các loại rủi ro mà TCTD đang và sẽ gặp phải như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro pháp lý... Phương pháp giám sát rủi ro thường được áp dụng tại các quốc gia mà hoạt động ngân hàng tương đối phát triển, hoạt động ngân hàng không chỉ bao gồm các hoạt động truyền thống mà còn mở rộng sang các loại hoạt động và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phương pháp này đòi hỏi phải có một sự phát triển đồng bộ về hệ thống cơ sở pháp lý, hệ thống quản lý thông tin, các công cụ định lượng và trình độ của cán bộ giám sát ngân hàng, đặc biệt là khả năng phân tích và sử dụng các công cụ định lượng. Dù chưa áp dụng được hoàn toàn nhưng việc Việt Nam bước đầu xây dựng được quy định khung về giám sát rủi ro cũng là điều hết sức cần thiết và đáng khích lệ.