Những đợt điều chỉnh lãi suất
Việc lãi suất giảm liên tục trong thời gian vừa qua nằm trong lộ trình giảm lãi suất năm 2012 và tiếp tục được thực hiện trong năm 2013, đã được Thống đốc NHNN định hướng điều hành ngay từ đầu năm 2012. Từ năm 2012 đến tháng 6/2013, NHNN đã 7 lần điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay. Lần đầu tiên được thực hiện vào ngày 13/03/2012, điều chỉnh từ mức 14%/năm về 13%/năm theo yêu cầu giảm lãi suất huy động của Thủ tướng chính phủ. Tiếp đó, lãi suất huy động được giảm liên tục và đến ngày 26/03/2013, trần lãi suất huy động ngắn hạn chỉ còn 7,5%/năm
Tiếp đó, với việc CPI tăng thấp (tại thời điểm tháng 5/2013, chỉ tăng ở mức 2,35% so với cuối năm 2012) kết hợp với thực trạng một lượng vốn lớn đang bị tắc nghẽn trong hệ thống ngân hàng (lượng vốn đang tắc nghẽn ước lượng xấp xỉ 130.000 tỉ đồng, do lượng vốn huy động tăng thêm của toàn hệ thống ngân hàng đạt xấp xỉ 200.000 tỉ đồng; trong khi đó, lượng vốn tín dụng chỉ tăng thêm của toàn hệ thống là 70.000 tỉ đồng). Ngày 10/05/2013, NHNN ban hành quyết định 1073 điều chỉnh giảm 1% các lãi suất chủ chốt với mong muốn khơi thông nguồn tín dụng tắc nghẽn, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Lãi suất huy động ngắn hạn
Các ngân hàng ấn định chính sách lãi suất theo quy định của NHNN, dẫn đến lãi suất huy động trên thị trường cũng có xu hướng giảm liên tục. Theo số liệu thu thập của các ngân hàng thương mại, lãi suất trung bình cho kỳ ngắn hạn giảm từ mức 13,93%/năm thời điểm tháng 2/2012 xuống 9,89%/năm vào tháng 6/2012 và xuống còn 7,39%/năm tại thời điểm tháng 5/2013.
Tuy nhiên, mục tiêu chính của động thái hạ lãi suất của NHNN không phải nhằm hạ lãi suất huy động, mà là kéo lãi suất cho vay xuống, đồng thời bơm tiền ra hỗ trợ nền kinh tế.
Thực tế, lãi suất cho vay VNĐ trong quý 1/2012 đã được điều chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối với một số lĩnh vực như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, phổ biến ở mức 14,5% đến 16%/năm; thấp nhất là 13,5%/năm, áp dụng với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng. Đến quý 3/2012, lãi suất cho vay các lĩnh vực khác phổ biến đã được đưa về mức 15%/năm, có thể hạ xuống 9%/năm đối với doanh nghiệp hạng A. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp thực sự tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất ưa đãi là không nhiều. Do vốn rẻ chỉ dành cho những lĩnh vực ưu tiên vì thế không ít khách hàng nằm ngoài đối tượng này vẫn phải vay lãi suất cao. Hoặc doanh nghiệp có nợ xấu lớn, nợ cũ chưa trả nên không thể vay được nợ mới. Dẫn đến sức hấp thụ vốn của nền kinh tế rất yếu, tăng trưởng tín dụng năm 2012 ở mức thấp kỷ lục, chỉ đạt khoảng 7%. Con số này đến cuối tháng 5/2013, vẫn không được cải thiện, chỉ đạt mức 2,98% so với cuối năm 2012. Số lượng doanh nghiệp phá sản, giải thể tiếp tục tăng mạnh trong năm 2012. Trong tổng số hơn 670.000 doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trên cả nước thì có đến gần 202.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2012, tăng 8,4% so với năm 2011 và bằng 50% tổng số doanh nghiệp rời thị trường trong vòng 20 năm qua.
Đứng trên phương diện phân tích kinh tế, có thể nhận thấy những nỗ lực của NHNN để hỗ trợ nền kinh tế có thể mang lại hiệu quả vể mặt tâm lý, còn thực tế. kết quả thu được vẫn rất hạn chế và cần phải có thêm thời gian để đạt được hiệu quả như mong muốn.
Tác động đến tâm lý người gửi tiền
Trong bài viết “Hạ lãi suất và những ảnh hưởng đối với tâm lý người gửi tiền ” số 1, chúng tôi đã đưa ra một số nhận định về tâm lý người gửi tiền. Trong thời gian qua, tâm lý người gửi tiền không có sự biến động lớn, nhưng vẫn có những thay đổi nhất định. Bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày tâm lý hiện tại của người gửi tiền và làm rõ những thay đổi trong tâm lý của họ thời gian qua.
Thứ nhất, vẫn giữ nguyên nhận định trước đây. Đó là việc hạ lãi suất liên tục tác động đến người gửi tiền nhưng không đủ mạnh để đưa dòng tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng.
Thực tế, theo báo cáo của NHNN, đến cuối tháng 5-2013, huy động vốn của hệ thống ngân hàng tăng 6,59% so với cuối năm 2012; trong đó tiền gửi Việt Nam đồng tăng 7,55% và ngoại tệ tăng 0,84%. Bên cạnh đó, tiền chảy vào ngân hàng chủ yếu ở khu vực dân cư với mức tăng đáng kể là 11,5%, trong khi các tổ chức kinh tế chỉ là 1,23%. Điều đó cho thấy, kênh tiền gửi tiết kiệm vẫn là lựa chọn của đa số người dân.
Có thể giải thích sự việc trên bằng một số nguyên nhân. Nguyên nhân mà chúng tôi đánh giá quan trọng nhất là tại thời điểm hiện tại, các thị trường đầu tư khác không đủ hấp dẫn với người gửi tiền. Các thị trường đầu tư được người dân ưa chuộng trong giai đoạn trước như: bất động sản, chứng khoán, vàng đang ở giai đoạn khó khăn và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro nên đa phần người gửi tiền muốn an tâm về nguồn vốn và gia tăng lợi nhuận một cách an toàn, vẫn chọn gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng là một trong những kênh hiệu quả nhất. Nguyên nhân thứ hai là người dân đã có một thời gian làm quen với việc hạ lãi suất của ngân hàng. Như chúng ta biết, diễn biến lãi suất thời gian qua đi theo xu hướng giảm liên tục, cùng với các tín hiệu kinh tế các tháng đầu năm 2013 như lạm phát ở mức thấp đã được các chuyên gia kinh tế phân tích và dự báo từ rất sớm, do đó người dân đã nắm bắt được thông tin và có tâm lý chuẩn bị. Dẫn đến thực tế là người gửi tiền đón nhận thông tin hạ lãi suất một cách chủ động, tích cực. Điều này cùng với kỳ vọng về lạm phát sẽ giữ mức ổn định, xoay quanh mức năm 2012 đã khiến lãi suất hạ ảnh hưởng không lớn đến nguồn vốn chảy vào ngân hàng. Thứ ba, việc gửi tiền vào ngân hàng của người dân phụ thuộc rất lớn vào kỳ vọng của họ về lạm phát. Theo thông tin từ Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, cùng với các chuyên gia kinh tế dự đoán thì lạm phát năm 2013 sẽ kết thúc ở mức thấp. Do đó người dân có thể yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng và hưởng lãi suất. Nếu đem so sánh với những năm trước, khi mà lạm phát rất cao, lãi suất danh nghĩa dù có cao vẫn thấp hơn mức lạm phát thì tương quan lãi suất và lạm phát này cũng tạo ra sự sự hấp dẫn không nhỏ.
Tình hình lãi suất huy động và lạm phát 2008-2012
Tiếp theo, vẫn giữ nhận định rằng tuy tiền được giữ lại trong hệ thống ngân hàng, nhưng không phải người gửi tiền đều có lựa chọn giống nhau. Tuy nhiên, 2 phương án được người dân cân nhắc nhất lúc này có sự khác biệt với các phương án trong kỳ trước.
Thứ nhất, người dân vẫn giữ phương án chuyển các khoản tiền gửi sang kỳ hạn dài hơn. Thời gian trước, lãi suất kỳ hạn 1 tháng gần như tương đương với lãi suất các kỳ hạn 3, 6, 9 tháng nên người gửi tiền thường lựa chọn kỳ hạn 1 tháng để đảm bảo tính thanh khoản, nhưng thời gian gần đây, đường cong lãi suất đã có những biến đổi, kỳ hạn dài hơn có lãi suất cao hơn; nên để tối đa hóa lợi nhuận từ những đồng tiền nhàn rỗi cùng với việc dự đoán xu hướng lãi suất trong tương lai sẽ thấp hơn, nhiều người gửi tiền đã chuyển sang gửi ngân hàng với kỳ hạn dài (từ 3, 6, 9, 12 tháng) để hưởng lãi suất cao. Khảo sát một số ngân hàng cho thấy, do chủ động nắm bắt khả năng hạ lãi suất từ sớm, một lượng lớn khách hàng đến gửi tiền đã chủ động lựa chọn kỳ hạn dài hơn để hưởng mức lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, việc chuyển sang gửi tiền dài hạn của người dân cũng mang lại lợi ích không nhỏ cho ngân hàng bởi khi đó, ngân hàng sẽ có nguồn vốn ổn định hơn, có thể yên tâm hơn về tình hình thanh khoản, và là tiền đề để đưa ra các phương án cho vay dài hạn hơn nhằm hỗ trợ hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, người gửi tiền có thêm phương án lựa chọn gửi tiền ở các ngân hàng nhỏ để hưởng mức lãi suất cao hơn. Thực tế, các ngân hàng lớn, có nguồn vốn dồi dào, thanh khoản tốt thường đi đầu trong việc giảm lãi suất tiền gửi. Còn các ngân hàng nhỏ, do nguốn vốn còn hạn chế nên thường sử dụng lãi suất cao hơn để thu hút tiền gửi. Động thái duy trì lãi suất cao hơn của ngân hàng nhỏ này phần nào đánh trúng tâm lý của người gửi tiền, do hầu hết người gửi tiền gần như ít quan tâm đến tình hình thanh khoản cũng như mức độ rủi ro của các ngân hàng mà họ gửi tiền, khi mà các ngân hàng đã được đảm bảo sẽ không phá sản trong giai đoạn này.
Nhận định cuối cùng, một bộ phận người gửi tiền cho rằng mức lãi suất tiền gửi thời điểm hiện tại là quá thấp và mong muốn chuyển lượng tiền của mình sang một hình thức đầu tư khác. Tuy nhiên, các kênh đầu tư khác như: mua vàng, mua USD, đầu tư thị trường chứng khoán hay cho vay ngoài với lãi suất cao đều không mang lại sự yên tâm với họ.
Theo khảo sát, một bộ phận người gửi tiền đang rất băn khoăn để tìm kênh đầu tư mới sinh lời tốt hơn. Họ cho rằng, với khoản tiền của họ, nếu gửi tiết kiệm ngân hàng thì một năm sau sẽ không giữ được giá trị như bây giờ. Vì thế, họ dự định rút một phần ra đầu tư các lĩnh vực khác như mua vàng, mua USD hoặc cho vay người quen vay với lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, tình hình biến động của giá vàng trong thời gian vừa qua đang rất khó lường. Nhiều chuyển gia cho rằng mua vàng lúc này chỉ nên dành cho những người có nhu cầu đóng trạng thái hoặc phải trả nợ bằng vàng. Với người dân có tiền nhàn rỗi, chỉ nên dành một phần lượng tài sản mua vàng để dành, còn lại chọn các kênh khác như gửi tiết kiệm để phân tán rủi ro, bởi giá vàng còn có thể giảm sâu hơn. Mặt khác, thị trường bất động sản dù có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn nhưng vẫn chưa thể hồi phục. Gói 30.000 tỉ đồng hỗ trợ thị trường dành cho khách hàng vay mua nhà và doanh nghiệp bất động sản được triển khai rất chậm và còn nhiều vướng mắc. Đối với thị trường chứng khoán, dù có nhiều phiên tăng mạnh nhưng việc kiếm lời là không đơn giản.
Chưa có số liệu chính xác về lượng tiền đầu tư vào các thị trường như vàng, chứng khoán và bất động sản nhưng với dòng tiền chảy vào ngân hàng tăng 6,59% so với cuối năm 2012, trong đó huy động vốn từ khu vực dân cư tăng mức cao 11,5%, cao hơn mức chung cho thấy so với các phương án đầu tư khác thì gửi tiết kiệm vẫn đang là kênh được lựa chọn của người dân.
Tóm lại, người gửi tiền có thể phản ứng rất khác nhau đối với việc lãi suất huy động giảm xuống. Nhưng về cơ bản, họ vẫn giữ lại tiền trong hệ thống ngân hàng. Điều này đảm bảo thanh khoản cũng như các kế hoạch bơm vốn dài hạn hơn của ngân hàng. Đứng trên quan điểm nhà phân tích kinh tế, khi tình hình vĩ mô không có biến động lớn như hiện nay, có thể nhận định rằng, tâm lý của người gửi tiền trong thời gian tới sẽ không thay đổi nhiều so với thời điểm hiện tại. Cùng với lạm phát ổn định quanh mức 6%, thanh khoản của các ngân hàng dự kiến ổn định trong năm 2013, là yếu tố tích cực giúp hệ thống ngân hàng tập trung giải quyết nợ xấu. Nếu tiền gửi biến động theo hướng như vậy, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là liệu ngân hàng có sử dụng tiền gửi một cách có hiệu quả cho nền kinh tế không.