Hoạt động giám sát từ xa được BHTGVN triển khai từ năm 2002 trên cơ sở nội dung giám sát việc chấp hành các quy định về BHTG và giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng dựa trên nguồn thông tin đầu vào từ các tổ chức tham gia BHTG và các nguồn thông tin khác được quy định trong các văn bản pháp quy về BHTG. Trong thời gian này, BHTGVN đã chủ động tập trung nghiên cứu, ứng dụng một số mô hình giám sát tài chính hiệu quả phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Hoạt động giám sát từ xa đã được thực hiện thống nhất từ Trụ sở chính tới các Chi nhánh BHTG khu vực, không chồng chéo và đáp ứng các yêu cầu trong quá trình quản lý, điều hành. Đội ngũ cán bộ giám sát được tuyển dụng và đào tạo phù hợp với nghiệp vụ ngân hàng, BHTG. Từ đó, giúp nâng cao chất lượng báo cáo giám sát, hệ thống báo cáo giám sát từ xa của BHTGVN đã trở thành 1 kênh thông tin giám sát có chất lượng đối với các cơ quan quản lý tài chính. Tính đến tháng 6/2012, BHTGVN đã thực hiện giám sát định kỳ đối với 100% tổ chức tham gia BHTG gồm 90 NHTM, 11 TCTD phi NH và 1.128 QTDND với tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm là khoảng gần 1.400 nghìn tỷ đồng. Kết quả của công tác giám sát từ xa đã phát hiện nhiều vi phạm về BHTG và vi phạm an toàn trong hoạt động NH từ đó có cảnh báo kịp thời tới các tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động giám sát từ xa của BHTGVN liên tục được đổi mới, tiến dần tới chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Giám sát từ xa đối với các tổ chức tham gia BHTG là cơ sở cho các hoạt động nghiệp vụ khác tại BHTGVN.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát từ xa trong thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn: (i) hệ thống văn bản pháp lý chưa đồng bộ và chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; (ii) chưa có cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin giám sát khả thi giữa BHTGVN với NHNN và các tổ chức tham gia BHTG; (iii) thông tin đầu vào từ tổ chức tham gia BHTG hạn chế, tính minh bạch và chất lượng thông tin không cao. Đây là những thử thách lớn đối với BHTGVN trong quá trình hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa.
Quá trình hội nhập kinh tế của đất nước tạo điều kiện cho hệ thống tài chính – ngân hàng phát triển một cách mạnh mẽ. Các tổ chức tài chính – ngân hàng tham gia BHTG ngày càng lớn mạnh về quy mô, hoạt động ngày càng phức tạp và rủi ro ngày càng lớn đòi hỏi hoạt động BHTG nói chung, hoạt động giám sát từ xa nói riêng cần phải có những thay đổi phù hợp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, luật pháp thiếu đồng bộ sẽ kìm hãm sự phát triển và thực tế tổ chức BHTGVN với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền hoạt động theo Nghị định nhưng lại giám sát một tổ chức hoạt động theo luật. Đây chính là sự khập khiễng đã được khắc phục bằng việc Quốc hội thông qua Luật BHTG mới đây. Việc xây dựng một hệ thống luật pháp tiên tiến về BHTG là một đòi hỏi khách quan của sự phát triển. Luật BHTG đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thống nhất nâng cao hiệu quả của hoạt động BHTG. Theo đó, hoạt động giám sát của BHTGVN cũng đảm bảo được thực hiện một cách kịp thời, hiệu quả và chất lượng. Sự ra đời của luật BHTG tạo khung pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động của BHTG, trong đó có hoạt động giám sát từ xa.
Hoạt động giám sát từ xa theo Luật BHTG về cơ bản mục tiêu và phương pháp giám sát vẫn trên cơ sở của các nội dung cũ, đó là: giám sát các tổ chức tham gia BHTG theo các quy định pháp luật về BHTG và các quy định pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm, rủi ro nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Luật BHTG có những điểm khác so với các văn bản pháp luật trước đây trong hoạt động giám sát từ xa, cụ thể như:
(i) Đối tượng tham gia BHTG là các tổ chức, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia BHTG. Đối tượng tham gia BHTG không thay đổi so với các văn bản trước đây, nhưng chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm thì thu hẹp, chỉ tập trung bảo hiểm đối với người gửi tiền nhỏ lẻ - “khách hàng là cá nhân”. Sở dĩ quy định như vậy là do mục tiêu hoạt động BHTG là nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền nhỏ lẻ, thường gửi tiền để tiết kiệm, ít có khả năng tiếp cận và phân tích thông tin về thị trường, về hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, do vậy họ rất dễ gặp rủi ro. Bên cạnh đó, qua các đợt khảo sát về số liệu tiền gửi tại các tổ chức tham gia BHTG của BHTGVN thấy rằng, số lượng khách hàng là cá nhân được bảo hiểm chiếm trên 95% tổng số lượng khách hàng tham gia BHTG. Điều này cũng phù hợp với xu hướng nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc thu hẹp chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm cũng làm thu hẹp đối tượng tham gia BHTG. Theo quy định của Luật Các TCTD năm 2010, đối với các TCTD phi NH (công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính) không được nhận tiền gửi của khách hàng là cá nhân. Do vậy, TCTD phi NH không còn phải thực hiện nghĩa vụ tham gia BHTG với BHTGVN như trước. Điều này ảnh hưởng đến việc thay đổi hệ thống văn bản giám sát nội bộ trong tổ chức BHTGVN để phù hợp với những quy định của Luật BHTG và các luật khác liên quan.
(ii) Hoạt động thông tin, báo cáo. Theo các văn bản pháp luật trước đây, nguồn thông tin đầu vào cho hoạt động giám sát của BHTGVN từ hai nguồn chủ yếu: Nguồn thông tin trực tiếp từ các tổ chức tham gia BHTG, bao gồm các loại báo cáo tài chính, báo cáo thống kê, báo cáo theo yêu cầu của BHTGVN và các loại báo cáo khác; nguồn thông tin thứ hai từ sự chia sẻ, trao đổi với Ngân hàng Nhà nước. Hai nguồn thông tin này được quy định rõ ràng trong các văn pháp pháp quy. Tuy nhiên, thời gian qua BHTGVN chủ yếu chỉ nhận được nguồn thông tin trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG, song nguồn thông tin này rất hạn chế. Đặc biệt, đối với hệ thống QTDND, nguồn thông tin này chủ yếu chỉ là Bảng cân đối tài khoản (Báo cáo tài chính), chất lượng thông tin thấp, phải chỉnh sửa nhiều. Nguyên nhân là do quy định về BHTG chưa có chế tài trong việc xử phạt vi phạm trong việc cung cấp thông tin đối với BHTGVN. Khắc phục được hạn chế trên, Luật BHTG đã quy định BHTGVN nhận nguồn thông tin về số dư tiền gửi trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG, các nguồn thông tin khác BHTGVN sẽ được chia sẻ từ NHNN. Quy định này tạo điều kiện giúp các tổ chức tham gia BHTG tập trung vào một đầu mối, tránh sự chồng chéo. Đồng thời, giúp cho BHTGVN tiếp cận được nguồn thông tin một cách có hệ thống, kịp thời và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, việc phân định cụ thể về cơ chế chia sẻ thông tin trong các văn bản dưới Luật như thế nào giữa BHTGVN và NHNN; giữa trách nhiệm chia sẻ thông tin của tổ chức tham gia BHTG và BHTGVN trong thời gian tới sẽ đóng góp một phần không nhỏ đến việc nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động giám sát.
(iii) Cảnh báo tới tổ chức tham gia BHTG: Theo quy định trước đây, BHTGVN được thực hiện chức năng cảnh báo trực tiếp tới tổ chức tham gia BHTG vi phạm pháp luật về BHTG và vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Theo Luật BHTG, BHTGVN không được trực tiếp cảnh báo tổ chức tham gia BHTG vi phạm pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng mà chỉ có chức năng kiến nghị NHNN để thực hiện cảnh báo. Điều này ảnh hưởng đến tính chủ động và vị thế của một tổ chức được trao quyền bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền.
(iv) hoạt động kiểm tra tại chỗ là hoạt động hỗ trợ và bổ sung cho hoạt động giám sát từ xa trong việc theo dõi và giám sát các tổ chức vi phạm an toàn trong hoạt động và vi phạm pháp luật về BHTG. Hoạt động kiểm tra được thực hiện theo định hướng giám sát. Tuy nhiên, với quy định như hiện nay thì kết quả giám sát từ xa không còn là nguồn thông tin đầu vào cho hoạt động kiểm tra tại chỗ vì Luật BHTG quy định rằng BHTGVN chỉ được theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG, không được thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về an toàn trong hoạt động trong khi hoạt động giám sát từ xa được thực hiện giám sát hai nội dung này. Đây là hạn chế lớn và không đồng nhất giữa hai hoạt động cấu thành nên hoạt động giám sát rủi ro của BHTGVN.
Như vậy, việc ban hành Luật BHTG nhằm nâng tầm BHTG trong hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những điểm hạn chế so với quy định hiện hành về BHTG. Vì vậy, để phát huy hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa khi Luật BHTG có hiệu lực, cần chú ý một số vấn đề sau:
- Cần xây dựng văn bản dưới luật quy định cụ thể, trách nhiệm rõ ràng trong việc cung cấp, trao đổi thông tin giữa NHNN và BHTGVN, làm cơ sở khai thác thông tin đầu vào cho hoạt động giám sát từ xa của BHTGVN đối với tổ chức tham gia BHTG.
- BHTGVN cần chủ động xây dựng lại bộ chỉ tiêu giám sát phù hợp với nguồn thông tin đầu vào từ NHNN và tổ chức tham gia BHTG giúp nâng cao chất lượng hoạt động giám sát; phối kết hợp với hoạt động kiểm tra tại chỗ để xây dựng bộ chỉ tiêu và mẫu biểu liên quan đến vấn đề giám sát tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG.
- Cần rà soát lại đối tượng phải tham gia BHTG theo Luật BHTG và các luật khác liên quan.
- Chủ động phối hợp với NHNN trong việc xử lý, cảnh báo các tổ chức tham gia BHTG có vấn đề trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và hoạt động BHTG.
Xây dựng mô hình giám sát mới phù hợp với cơ chế cung cấp thông tin đầu vào và cảnh báo sau giám sát theo quy định của Luật BHTG.