Thông qua kết quả khảo sát, IADI chia sẻ thông tin về một số đặc điểm cơ bản của tổ chức BHTG như: nhiệm vụ, quản trị; thành viên, hạn mức; nguồn vốn, vai trò của tổ chức BHTG trong quá trình xử lý ngân hàng và quản lý khủng hoảng.
Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy các quốc gia đang tiếp tục tăng cường vai trò của tổ chức BHTG và hướng tới việc tuân thủ tốt hơn Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển BHTG hiệu quả. IADI cũng đang trong quá trình nâng cao năng lực dự báo và báo cáo về các xu hướng mới nổi của hệ thống BHTG, ổn định tài chính trong tương lai.
Về quản trị và nhiệm vụ, quyền hạn: Đa số tổ chức BHTG do Nhà nước thành lập và quản lý, chỉ có ¼ số lượng tổ chức do tư nhân quản lý. ¾ số lượng tổ chức hoạt động độc lập và có khoảng 10% trực thuộc ngân hàng trung ương. Khoảng 30% tổ chức BHTG hoạt động theo mô hình chi trả (paybox), 45% hoạt động theo mô hình chi trả mở rộng (paybox plus) với các chức năng về xử lý nhất định, và 25% hoạt động theo mô hình giảm thiểu rủi ro (risk-minimiser) hoặc giảm thiểu tổn thất (loss-minimiser).
Thành viên và hạn mức: Cơ chế thành viên là bắt buộc đối với tổ chức tín dụng tại hầu hết quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó chủ yếu là ngân hàng thương mại. Các sản phẩm tài chính được bảo hiểm chủ yếu là tài khoản tiết kiệm và tài khoản vãng lai. Do sự khác biệt về các điều kiện kinh tế vĩ mô và khu vực, hạn mức BHTG dao động ở mức từ dưới 1000 đô la Mỹ đến 300.000 đô la Mỹ, và một số tổ chức BHTG áp dụng bảo hiểm toàn bộ. Tính đến hết năm 2018, hạn mức BHTG trung bình là 70.000 đô la Mỹ cho mỗi cá nhân tại mỗi tổ chức tín dụng và đã tăng đáng kể trong vòng 10 năm trở lại đây. Khu vực có hạn mức cao nhất là Châu Âu và Bắc Mỹ (100.000 đô la Mỹ), trong khi hạn mức thấp nhất là ở Châu Phi (10.000 đô la Mỹ).
Nguồn vốn: Trên 90% tổ chức BHTG hoạt động theo cơ chế cấp vốn trước. Chỉ một số hoạt động theo cơ chế cấp vốn sau, và các tổ chức này cũng đang trong quá trình triển khai cơ chế cấp vốn trước. Hiện tại, số lượng các tổ chức BHTG hoạt động theo cơ chế cấp vốn trước và có quyền yêu cầu đóng góp bổ sung sau đó từ các tổ chức thành viên đang ngày càng gia tăng.
Chi trả: Các tổ chức BHTG ngày càng tập trung nâng cao nghiệp vụ chi trả BHTG và giảm thời gian chi trả. Thời gian chi trả trung bình đã giảm xuống khoảng 7 ngày tại các khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Châu Phi, Châu Âu và Bắc Mỹ.
Khuôn khổ xử lý: Kết quả khảo sát cho thấy tồn tại một số cơ chế xử lý ngân hàng tại khoảng ¾ số quốc gia và vùng lãnh thổ. Chi trả và thanh lý là những công cụ phổ biến nhất, kế đó là mua lại sáp nhập, ngân hàng bắc cầu và hỗ trợ ngân hàng mở.