Đề cập tới vai trò cũng như lợi ích của BHTG đối với người dân, TS. Đinh Xuân Thảo Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Khi nói đến khái niệm bảo hiểm lĩnh vực nào đó, người ta thường nghĩ tới lợi ích của người tham gia đóng góp bảo hiểm nhận lại sự chi trả, chia sẻ khi có rủi ro xảy ra. Nhưng đối với BHTG, người gửi tiền không phải trực tiếp đóng phí bảo hiểm mà trách nhiệm này thuộc về tổ chức nhận tiền gửi. Cụ thể, TCTD, ngân hàng nhận tiền gửi của người dân thay mặt họ đóng một khoản gọi là phí bảo hiểm để nếu không may ngân hàng mất khả năng chi trả hoặc bị phá sản thì người thứ ba là tổ chức BHTG sẽ đền bù cho người gửi tiền. Tổ chức BHTG hay hoạt động BHTG nhằm bảo vệ trước hết lợi ích của người gửi tiền nhưng cũng đảm bảo hoạt động ổn định và phát triển bền vững của TCTD – nơi nhận tiền gửi từ người dân.
Về vấn đề mà dư luận quan tâm nhất: Khi Luật BHTG có hiệu lực thì hành, quyền lợi của người gửi tiền sẽ được bảo vệ ra sao. TS. Bùi Khắc Sơn - Tổng giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khẳng định: BHTG là chính sách của Nhà nước bảo vệ người gửi tiền, người sử dụng dịch vụ tài chính. Trong trường hợp có sự đổ vỡ hoặc đóng cửa các TCTD, tổ chức tham gia BHTG sẽ là người thay mặt Chính phủ chi trả cho người gửi. Để người dân yên tâm thì vấn đề đặt ra làm thế nào chi trả cho người gửi tiền sớm nhất, đúng thời gian quy định. Điều đó liên quan tới quỹ BHTG được hình thành bởi sự đóng góp của các tổ chức tham gia BHTG, TCTD. Đồng thời, nguyên tắc chung là không lấy tiền từ Ngân sách Nhà nước, tiền thuế của người dân để chi cho việc xử lý đổ vỡ.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, rủi ro hoạt động ngân hàng ngày càng gia tăng, nhưng hạn mức trả tiền bảo hiểm vẫn “đứng yên” từ năm 2005 ở mức 50 triệu đồng cho đến nay khiến nhiều người dân lo lắng. Chia sẻ về vấn đề này, ông Phạm Thanh Hà - Phó TGĐ Vietcombank cho rằng, hạn mức trả tiền bảo hiểm được áp dụng từ năm 2005. Qua nhiều năm, nhiều biến động của tình hình kinh tế xã hội trong nước thời gian qua và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, rõ ràng các nước đã có những phản ứng nhanh nhạy, điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm linh hoạt. Tuy nhiên, chúng ta vẫn duy trì hạn mức trả tiền bảo hiểm không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Đơn cử, tại VCB, theo thống kê, để bảo vệ khoảng 80% số người gửi tiền, hạn mức trả tiền bảo hiểm phải nâng lên 270 triệu đồng. Còn để bảo vệ được 90% khách hàng cá nhân của VCB, hạn mức trả tiền bảo hiểm phải lên tới 500 triệu đồng.
Đồng tình với quan điểm này, lãnh đạo BHTGVN nhấn mạnh: Đây là vấn đề chính sách quan trọng của Nhà nước khi muốn củng cố và nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính quốc gia. Nếu hạn mức trả tiền bảo hiểm cao thì niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính quốc gia cao. Tuy nhiên, theo ông Sơn, hạn mức trả tiền bảo hiểm chỉ nên cao vừa phải để tránh rủi ro đạo đức từ phía tổ chức huy động tiền gửi hoặc từ phía người dân. Nghiên cứu của BHTGVN cho thấy, hạn mức trả tiền bảo hiểm được hình thành bởi những cơ sở thực tiễn và khoa học: Thu nhập bình quân đầu người của từng giai đoạn; sức khỏe của hệ thống TCTD; chính sách tiền tệ và lạm phát hàng năm. Mặt khác, khi huy động cao hoặc nếu có khủng hoảng hoặc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thì Nhà nước cần xem xét điều chỉnh hạn mức cho phù hợp. Thông thường, ở các nước hạn mức trả tiền bảo hiểm được xem xét 5 năm/lần, nếu đột xuất có khủng hoảng hoặc đổ vỡ mang tính hệ thống thì phải điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm ngay lập tức, thậm chí là bảo hiểm không giới hạn. Ở Việt Nam, BHTGVN cũng đang đề xuất với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Chính phủ xem xét nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm từ 50 triệu đồng lên khoảng 200 triệu đồng.
Nhiều TCTD cũng cho rằng, nếu hạn mức trả tiền bản hiểm được nâng lên, người dân gửi tiền vào hệ thống ngân hàng sẽ nhiều hơn, TCTD có nguồn để cho vay được nhiều hơn, khi đó lợi nhuận của các TCTD sẽ cao hơn.
Nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm cũng đồng nghĩa quỹ BHTG phải được củng cố, năng lực tài chính của tổ chức BHTG phải được tăng cường để đảm bảo có nguồn chi trả cho người gửi tiền. Ông Bùi Khắc Sơn lý giải, hạn mức trả tiền bảo hiểm và phí BHTG có mối liên hệ chặt chẽ. Nguyên tắc là hạn chế tối đa sử dụng ngân sách nhà nước cho chi trả nhưng phí BHTG không thể quá cao để trở thành gánh nặng đối với các TCTD. Thông thường ở các quốc gia, quỹ BHTG chiếm tỷ lệ 1,5-3% (thậm chí cao hơn) so với tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. Tuy nhiên, trong trường hợp khủng hoảng hay đổ vỡ hệ thống thì quỹ này không thể đáp ứng được. Khi đó, tổ chức BHTG được phép vay TCTD, vay ngân sách Nhà nước hoặc vay trong nước, vay ngoài nước để bù đắp. Chính phủ bảo lãnh các khoản vay này. Sau đó, tổ chức BHTG tham gia xử lý đổ vỡ để thu hồi các khoản nợ hoàn trả ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, theo quy định tổ chức tham gia BHTG phải đóng phí 0,15% trên tổng số dư các loại tiền gửi được bảo hiểm. Việc áp dụng mức phí đồng hạng trong thời gian đầu tiên triển khai đã giúp tổ chức BHTG dễ dàng trong quản lý, tính phí và thu phí. Tuy nhiên, nếu tiếp tục duy trì cách tính phí đó không đảm bảo nguyên tắc thị trường, không tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD. Luật BHTG quy định phí BHTG được tính trên cơ sở rủi ro của TCTD. Tổ chức nào rủi ro cao sẽ chịu mức phí cao và ngược lại. Để cụ thể hóa vấn đề này cần xếp hạng TCTD và đòi hỏi sự tham mưu tích cực của các cơ quan chức năng liên quan.