Liên tục giảm lãi suất, đồng hành cùng doanh nghiệp
Từ đầu năm 2020 đến nay, để giảm bớt khó khăn, tăng khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với nền kinh tế, trên cơ sở diễn biến kinh tế trong và ngoài nước, NHNN đã liên tiếp điều chỉnh giảm 3 lần các mức lãi suất, tổng mức giảm 1,5-2,0%/năm đối với lãi suất điều hành; sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho tổ chức tín dụng (TCTD), tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp hơn, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất kinh doanh. So với các nước trong khu vực, Việt Nam hiện là một trong những nước có mức giảm lãi suất điều hành lớn nhất.
Đồng thời, để hỗ trợ TCTD giảm chi phí có điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân, NHNN đã giảm 0,6-1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD đối với khách hàng với tổng mức giảm là 1,5%/năm (hiện ở mức 4,5%/năm).
Bên cạnh đó, NHNN cũng chỉ đạo TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.
Việc điều hành giảm các mức lãi suất nêu trên cùng với các giải pháp chính sách tiền tệ (CSTT) đồng bộ đã tác động làm giảm mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay. Đến cuối năm 2020, lãi suất tiền gửi và cho vay đã giảm khá mạnh, khoảng 1%/năm so với 2019; xu hướng giảm lãi suất này vẫn tiếp tục trong những tháng đầu năm 2021. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tháng 03/2021 giảm khoảng 0,2%/năm so với tháng 12/2020 . Lãi suất cho vay giảm đã góp phần giảm bớt khó khăn, tăng khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng cho các doanh nghiệp với chi phí thấp hơn trước đây. Hiện lãi suất tiền gửi bằng VND ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,1-3,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,0-5,9%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,6-6,7%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND thuộc một số ngành, lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm; lãi suất tiền gửi USD của TCTD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của cá nhân và tổ chức; lãi suất cho vay USD bình quân ở mức 3,0-6,0%/năm. Khảo sát trong Q1/2021, lãi suất cho vay ở hầu hết các ngân hàng thương mại nhìn chung vẫn ổn định so với thời điểm cuối năm 2020.
Lãi suất liên tục giữ ở mức thấp trong thời gian vừa qua khiến nhiều chuyên gia lo ngại dòng vốn từ ngân hàng sẽ "chảy" sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản, tiền kỹ thuật số...
Trước xu hướng này, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV khuyến nghị, các nhà đầu tư tránh theo phong trào, đầu tư vào các mô hình không có cơ sở pháp lý, đặc biệt người dân cần nâng cao hiểu biết về đầu tư tài chính để tránh bị lừa gạt hay đầu cơ. Công ty SSI nhận định, dù lãi suất tiền gửi giảm sâu xuống mức thấp chưa từng có nhưng huy động của các ngân hàng thương mại vẫn rất khả quan. Cùng với đó là sự sụt giảm của cầu tín dụng khiến cho chênh lệch tiền gửi và tín dụng từ đầu năm 2020 đến này giãn khá rộng.
Theo các dự báo gần đây, hoạt động kinh tế sôi động hơn sẽ khiến cầu tín dụng tăng mạnh hơn, lạm phát cũng tăng cao hơn trong nửa cuối 2021 sẽ khiến lãi suất tiền gửi gia tăng.
Lãi suất tại các ngân hàng thương mại hiện ra sao?
Khảo sát lãi suất huy động tháng 5/2021 tại các ngân hàng thương mại có sự chênh lệch khá lớn giữa các nhóm ngân hàng. Có thể thấy, những ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất trên thị trường hiện nay chủ yếu là những ngân hàng nhỏ, trong khi đó, những ngân hàng lớn lại có lãi suất rất thấp.
Đối với kỳ hạn 12 tháng, SCB đang là ngân hàng có lãi suất cao nhất với 6,8%/năm, áp dụng cho cả hình thức gửi tại quầy và gửi online. Các ngân hàng có lãi suất cao tiếp theo là CBBank (6,55%/năm), VietABank, Kienlongbank (6,5%/năm),...
Ở kỳ hạn 9 tháng, CBBank là ngân hàng có lãi suất cao nhất (6,35%/năm), sau đó đến NCB và SCB (6,2%/năm). Một số ngân hàng khác có lãi suất ở mức 6%/năm là NamABank, GPBank, VieABank.
CBBank đang là ngân hàng có lãi suất kỳ hạn 6 tháng cao nhất với 6,25%/năm. Theo sau có NCB (6,05%/năm), NamABank, VietABank (6%/năm). 4 "ông lớn" Vietcombank (3,8%/năm), VietinBank, BIDV, Agribank (4%/năm) là những ngân hàng có lãi suất thấp nhất ở kỳ hạn này.
Ở kỳ hạn 3 tháng, VietBank, GPBank là 2 ngân hàng có mức lãi suất cao nhất ở mức tối đa 4%/năm. Thấp hơn một chút có NamABank, SCB (3,95%/năm), OCB, PVCombank (3,9%/năm),... Trong khi đó, các ngân hàng hàng lớn đều niêm yết ở mức rất thấp, đa số thấp hơn 3,5%/năm. Chẳng hạn, Vietcombank chỉ 3,2%/năm; ACB, Techcombank (3,3%/năm), MB, Sacombank (3,4%/năm),...
Đối với các khoản tiền gửi lớn, ngân hàng Phương Đông (OCB) đang giữ vị trí đứng đầu với lãi suất cao nhất là 8,2%/năm. OCB áp dụng mức lãi suất này cho các khoản tiền gửi từ 500 tỷ đồng trở lên gửi tại kỳ hạn 13 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ. Ngân hàng VietBank giữ vị trí thứ hai với lãi suất tiết kiệm ghi nhận được là 7,8%/năm. Tuy nhiên, VietBank áp dụng lãi suất này cho mọi khoản tiền gửi tại kỳ hạn 13 tháng. Ngân hàng ACB tiếp tục duy trì lãi suất 7,4%/năm đối với khoản tiết kiệm từ 30 tỷ đồng trở lên tại kỳ hạn 13 tháng, nắm giữ vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng lãi suất ngân hàng. Theo sau đó là các ngân hàng Techcombank với lãi suất 7,1%/năm với số tiền 200 tỷ đồng trở lên và kỳ hạn 12 tháng. MSB lãi suất 7%/năm cũng với số tiền 200 tỷ đồng và kỳ hạn 13 tháng. LienVietPostBank lãi suất 6,99%/năm với số tiền từ 300 tỷ đồng trở lên và kỳ hạn 60 tháng. ; HDBank và Sacombank cùng có lãi suất là 6,95%/năm với số tiền tương ứng từ 300 tỷ đồng và 500 tỷ đồng trở lên, kỳ hạn 13 tháng.
Theo các chuyên gia, mặc dù tăng trưởng kinh tế được dự báo khá lạc quan tăng 6,1%-6,8%, nhưng mức tăng trưởng kinh tế quý I/2021 đạt 4,48% cho thấy còn nhiều khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 6,5%; lạm phát bình quân tháng 3/2021 tăng 0,29% so với cùng kỳ và dự kiến được kiểm soát theo mục tiêu bình quân khoảng 4%. Thanh khoản hệ thống TCTD được đảm bảo và dư thừa, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ đều ở mức khá thấp. Tăng trưởng tín dụng toàn ngành được kiểm soát khoảng 12%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, hướng dòng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh để hỗ trợ đà phục hồi kinh tế, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Theo đó, cùng với việc NHNN tiếp tục điều hành theo hướng giữ ổn định các mức lãi suất, thì mặt bằng lãi suất thị trường trong thời gian tới được dự báo tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm.