Khi xét đến tính hiệu quả của mô hình bảo hiểm tiền gửi cần xét đến góc độ bản chất của hoạt động BHTG là trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít (như các loại hình bảo hiểm khác) nhưng mang tính chất đặc thù là thực hiện chính sách công. Mục tiêu thực hiện chính sách công là hướng tới 2 đích cụ thể là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Vậy một mô hình BHTG được coi là hiệu quả phải được thiết kế để đạt được mục tiêu đó. Việc xây dựng mô hình BHTG cần tính đến những đặc điểm kinh tế vĩ mô, đặc điểm thị trường tài chính, nhu cầu bảo vệ người gửi tiền, vị trí tổ chức BHTG trong của mạng an toàn tài chính và một số nhân tố khác trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn triển khai và thông lệ quốc tế.
Chúng ta xây dựng Luật BHTG khi bối cảnh trong nước và quốc tế đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách tốt để bảo vệ dân nói chung và người gửi tiền nói riêng bởi niềm tin của dân với hệ thống tài chính ngân hàng bị suy giảm do nhiều nguyên nhân.
Bối cảnh quốc tế: Kinh tế thế giới đang dần phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ổn, sự tăng trưởng chưa ổn định, bền vững. Nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính bị đổ vỡ, khủng hoảng nợ công ở một số nước Châu Âu, bất ổn chính trị ở Bắc Phi là những nhân tố làm sói mòn niềm tin không chỉ ở những nước đó mà còn lan sang các nước khác. Nhiều nước trên thế giới đã đưa ra những biện pháp để khôi phục củng cố niềm tin công chúng thông qua nhiều chính sách trong đó có chính sách bảo vệ người gửi tiền.
Bối cảnh trong nước
Mặc dù nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 6,7% nhưng chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như lạm phát tăng cao, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, thị trường tài chính tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, niềm tin của dân đối với hệ thống tài chính suy giảm do chính sách còn bất cập như chính sách về lãi suất, tỷ giá, chính sách bảo vệ người gửi tiền. Trước thực trang đó, Chính phủ đã ban hành Nghi quyết số 11 về các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Việc xây dựng củng cố niềm tin đối với người gửi tiền trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết góp phần thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Hơn thế nữa, trong thực tế chính sách BHTG hiện nay đã thể hiện một số bất cập như hạn mức chi trả quá thấp (50 triệu đồng cho mỗi khoản tiền gửi của một cá nhân tại một tổ chức tín dụng). Hạn mức này được quy định từ năm 2005 dựa trên tiêu chí bảo vệ số đông người gửi tiền và đến nay đã không còn phù hợp và làm giảm niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Năng lực tài chính của BHTGVN còn hạn chế, Phí BHTG cũng đang áp dụng mức phí đồng hạng. Điều đó chưa đảm bảo tính thị trường trong việc tính phí bảo hiểm. Nghiệp vụ xử lý đổ vỡ ngân hàng chưa theo thông lệ quốc tế. Địa vị pháp lý của tổ chức BHTG chưa rõ ràng đặc biệt việc xác định mô hình của tổ chức BHTG, vai trò, vị trí của tổ chức BHTGVN trong mạng an toàn tài chính….
Trong bối cảnh như hiện nay, việc bảo vệ người gửi tiền là một yêu cầu quan trọng. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật về BHTG phù hợp với điều kiện thực tiễn khác quan và thông lệ quốc tế để tổ chức BHTGVN hoạt động hiệu quả, mang lại lợi ích cho quốc gia. Để xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả chúng ta cần chú ý tới 1 số vấn đề bao gồm việc xác định một số nội dung sau:
- Xác định Luật BHTG là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực BHTG với các quy định rõ ràng và minh bạch.
- Về xác định mục tiêu
Hệ thống BHTG cần được thiết kế để đạt được mục tiêu thực hiện chính sách công là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Các mục tiêu này phải được thể chế hóa bằng những quy định của pháp luật. Đồng thời, hệ thống BHTG được xây dựng phù hợp tránh rủi ro đạo đức.
- Về nhiệm vụ quyền hạn:
Để thực hiện mục tiêu đó, nhiệm vụ, chức năng của tổ chức BHTGVN cần được quy định rõ ràng, chi tiết, tránh chồng chéo hoặc bỏ trống chức năng với các cơ quan giám sát khác trong hệ thống tài chính quốc gia, thống nhất với mục tiêu thực hiện chính sách công.
Để hoàn thành được chức năng, BHTGVN cần có các quyền hạn cần thiết và cần được quy định cụ thể chính thức ví dụ như các tổ chức BHTG cần có quyền tiếp cận thông tin giám sát, quyền lập quỹ phục vụ công tác chi trả, quyền tham gia xử lý đổ vỡ ngân hàng….
- Về nguyên tắc hoạt động
Tổ chức BHTGVN cần hoạt động một cách độc lập, minh bạch có uy tín và không bị tác động bởi khu vực tài chính ngân hàng. Tính độc lập tạo cho BHTG một vị thế quan sát tốt đối với hệ thống ngân hàng và là điều kiện để bảo vệ tốt hơn người gửi tiền. Nếu khi tổ chức BHTG nằm trong hệ thống ngân hàng tầm quan sát, niềm tin của người gửi tiền sẽ bị suy giảm và sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách BHTG.
- Mối quan hệ với các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính
Cần quy định vị trí của tổ chức BHTGVN nằm trong mạng an toàn tài chính với một khung pháp lý phối hợp chặt chẽ và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan giám sát. Khi có khung pháp lý rõ ràng thì đó là điều kiện quan trọng thể hiện sự chính thức hóa quan hệ chia sẽ và phối hợp thông tin. Trong khi thiết lập cơ chế tính bảo mật, kịp thời của thông tin cần được chú ý bởi hoạt động tài chính ngân hàng mang tính nhạy cảm. Để tạo uy tín cho hệ thống BHTG và tránh các vấn đề có thể thể dẫn đến rủi ro đạo đức, hệ thống BHTG cần phải là bộ phận cấu thành của mạng an toàn tài chính hiệu quả, phải được thiết kế phù hợp và vận hành tốt. Mạng an toàn tài chính thường bao gồm các cơ quan quản lý và giám sát an toàn, người cho vay cuối cùng và bảo hiểm tiền gửi. Việc phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên mạng an toàn tài chính cần đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch, tránh tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống giữa các bộ phận giám sát.
- Luật BHTG cần tạo cơ chế để tất cả thành viên của mạng an toàn tài chính trong đó có BHTGVN cùng phải hợp tác, phối hợp với nhau xử lý khủng hoảng một cách hiệu quả. Ngoài ra, các chi phí xử lý đổ vỡ hệ thống không nên chỉ là gánh nặng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi mà nên được xử lý bằng nhiều cách thức khác nhau như thông qua nhà nước.
- Về vấn đề năng lực tài chính: Cần xây dựng một hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam quy định sẵn các cơ chế cấp vốn nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động chi trả cho người gửi tiền được nhanh chóng, trong đó có cách thức huy động nguồn tài chính dự phòng bổ sung cho mục đích thanh khoản khi cần. Các ngân hàng chịu trách nhiệm chính trong việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi bởi chính họ và khách hàng của họ sẽ trực tiếp được hưởng lợi từ hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động hiệu quả.
- Luật cần nghiên cứu để điều chỉnh một số bất cập như cần nâng hạn mức chi trả để đảm bảo niềm tin công chúng, quy định rõ ràng các nghiệp vụ để tổ chức BHTGVN thuận lợi trong việc triển khai chính sách. Cần đổi mới cơ chế thu phí dựa trên nguyên tắc thị trường theo đó ngân hàng nào hoạt động tốt thì mức phí thấp và ngược lại. Đối với mọi hệ thống bảo hiểm tiền gửi (dù áp dụng hình thức thu phí trước, thu phí sau hay kết hợp) khi áp dụng cách thức thu phí theo mức độ rủi ro, các tiêu chí được sử dụng trong hệ thống thu phí này cần phải minh bạch đối với tất cả các thành viên tham gia. Ngoài ra, cần phải có sẵn mọi nguồn lực cần thiết để hỗ trợ công tác quản trị hệ thống thu phí theo mức độ rủi ro theo cách phù hợp nhất.
Nói tóm lại, để hoạt động của hệ thống BHTG tại Việt Nam hoạt động hiệu quả góp phần bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và đảo bảo an toàn hoạt động ngân hàng, cần xây dựng Luật BHTG với những nội dung rõ ràng và minh bạch trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn hoạt động BHTG của Việt Nam trong hơn 10 năm qua, tham khảo kinh nghiệm xu hướng quốc tế và đặt trong bối cảnh tổng thể của hệ thống chính trị, thể chế, nền kinh tế và thị trường tài chính.
Luật BHTG - cần xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả tại Việt Nam
 Hệ thống BHTG hiệu quả được coi là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hệ thống tài chính ngân hàng. BHTGVN có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố niềm tin của công chúng, góp phần vào sự phát triển an toàn lành manhh đối với hệ thống tài chính ngân hàng, đảm bảo an sinh xã hội. Thực tế đã chứng minh, một hệ thống BHTG hiệu quả là cần thiết và là mục tiêu hướng tới của các quốc gia . Luật BHTG là cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả tại nước ta. Luật BHTG cần giải quyết được mối quan hệ của các nhóm vấn đề như quy định về bảo hiểm (hạn mức chi trả, năng lực tài chính, phí, hoạt động nghiệp vụ), mô hình tổ chức BHTGVN, mối quan hệ giữa tổ chức BHTGVN với các cơ quan giám sát, tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền và các cơ quan khác.