Hoạt động BHTG trên thế giới đã có lịch sử trên 70 năm. Đến tháng 3/2011 đã có tới 111 tổ chức BHTG được thành lập và xu hướng này ngày càng tăng mạnh. Với quá trình phát triển của mình, BHTG nói chung đã xây dựng cho mình hoạt động cơ bản nhằm mục tiêu cơ bản là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo sự ổn định cho hệ thống tài chính. Nội dung dưới đây xin giới thiệu một số nghiệp vụ BHTG cơ bản của một số quốc gia, đã góp phần giúp BHTG thực hiện tốt mục tiêu của mình, đó là duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính quốc gia.
Hoạt động kiểm tra, giám sát
Theo một nghiên cứu của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế, để hoạt động hiệu quả, tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhất thiết phải là một phần trong hệ thống an toàn tài chính nhằm phát hiện sớm, can thiệp và xử lý kịp thời các ngân hàng gặp vấn đề. Vì vậy, có một hệ thống kiểm tra, giám sát tốt sẽ phục vụ cho việc xác định các nguy cơ khó khăn tài chính của tổ chức tham gia BHTG một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.
Thực tế hoạt động kiểm tra, giám sát của mỗi tổ chức BHTG trên thế giới mang nội dung và phạm vi khác nhau nhằm phục vụ cho mục tiêu cụ thể của từng tổ chức.
Tại Mỹ
Là một nước có hệ thống BHTG tiêu biểu trên thế giới hiện nay. Tính đến tháng 6/2006, Tổng công ty BHTG Mỹ (FDIC) có chức năng giám sát từ xa đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG của FDIC và kiểm tra trực tiếp khoảng 5.300 ngân hàng và các ngân hàng tiết kiệm, chiếm hơn một nửa số tổ chức trong hệ thống ngân hàng.
Các tổ chức tham gia BHTG bắt buộc phải được kiểm tra hàng năm bởi FDIC hoặc các cơ quan chủ quản ngân hàng có thẩm quyền khác. Theo Luật BHTG liên bang Mỹ (Điều 10b), FDIC có quyền kiểm tra thường xuyên các ngân hàng cấp bang không phải là thành viên của Hệ thống dự trữ liên bang có tham gia BHTG, các chi nhánh cấp bang của ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng đang lập hồ sơ xin tham gia BHTG, và các ngân hàng bị vỡ nợ. Ngoài ra, Ban giám đốc của FDIC có quyền ra quyết định kiểm tra đặc biệt bất cứ tổ chức tham gia BHTG nào, nếu thấy cần thiết, để phục vụ cho hoạt động bảo hiểm. FDIC còn có thể kiểm tra các bên liên quan với các tổ chức tham gia BHTG để làm rõ mối quan hệ và ảnh hưởng của các bên liên quan tới tổ chức tham gia BHTG.
Tại Ba Lan
Quỹ bảo đảm ngân hàng Ba Lan (BFG), tổ chức này sẽ phân tích các báo cáo tài chính, thông tin về các ngân hàng từ Ngân hàng nhà nước Ba Lan và từ Hiệp hội ngân hàng hợp tác, đưa ra kết luận để giám sát tình trạng hoạt động của các ngân hàng bằng hệ thống phân tích nhằm cảnh báo sớm tình trạng khó khăn có thể xảy ra trong hoạt động của các ngân hàng. Hoạt động này giúp các ngân hàng tránh được rủi ro lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, bảo vệ sự an toàn cho toàn hệ thống.
Hoạt động phân tích phục vụ cho việc định ra tỉ lệ cho vay và đánh giá mức phí phải nộp của các ngân hàng được BFG thực hiện vào thời điểm cuối mỗi năm. Mức độ và cơ cấu của các khoản tiền gửi cũng như các tài sản có và các khoản phải trả trên bảng cân đối tài sản (theo mức rủi ro) sẽ được kiểm tra đặc biệt.
Tại Đài Loan
Tổng công ty BHTG Trung ương Đài Loan (CDIC) chủ yếu thực hiện các cuộc kiểm tra trực tiếp và thông qua giám sát từ xa. Kiểm tra trực tiếp bao gồm kiểm tra toàn diện và kiểm tra đặc biệt. Nội dung của kiểm tra toàn diện gồm tất cả các hoạt động của một tổ chức và tập trung vào những thay đổi trong môi trường tài chính, trong khi kiểm tra đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực hoạt động cụ thể để ứng phó với những thay đổi bất thường về tình hình tài chính hoặc những sự kiện không mong muốn khác khi được cơ quan có thẩm quyền uỷ quyền.
Nhằm kiểm soát hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, phát hiện sớm các vấn đề để kịp thời có các hoạt động hỗ trợ, kiểm soát cần thiết, đồng thời hình thành công cụ hữu hiệu cho kiểm tra tài chính và phân tích quản trị rủi ro, CDIC ngay từ đầu được thành lập Hệ thống cảnh báo sớm tình hình tài chính của các tổ chức tham gia BHTG. Hệ thống này đã phát huy hiệu quả cao, vì vậy, năm 1993 Bộ Tài chính đã ủy quyền cho CDIC phát triển và xây dựng thành Hệ thống cảnh báo sớm tài chính của quốc gia và đến tháng 6/1993 được đưa vào sử dụng.
Trên một phương diện khác, công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức BHTG trên thế giới cũng mang nhiều mục đích khác nhau. Tùy vào quy mô hoạt động và mục đích riêng mà mỗi hệ thống BHTG tập trung vào những lĩnh vực kiểm tra, giám sát khác nhau, từ đó dẫn đến nội dung, quy trình và phạm vi cũng khác nhau. Vì vậy, có những tổ chức BHTG đã phát triển cả về mặt kỹ thuật, kinh nghiệm lại có rất nhiều khoản mục kiểm tra, giám sát khác nhau ngoài việc kiểm tra an toàn hoạt động ngân hàng.
Hoạt động kiểm tra, giám sát là yêu cầu cần thiết đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiên gửi trong việc bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định hoạt động tài chính quốc gia.
Hoạt động hỗ trợ tài chính
Hỗ trợ tài chính thường là giải pháp được tổ chức BHTG sử dụng để hỗ trợ cho tổ chức tham gia BHTG được xác định là có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Tổ chức tham gia BHTG có thể nhận hỗ trợ theo hình thức cho vay trực tiếp, mua lại các tài sản có hoặc gánh vác các khoản nợ hoặc gửi tiền vào ngân hàng có vấn đề và bảo lãnh khoản vay. Khi có thể, tổ chức được hỗ trợ sẽ phải hoàn trả ngay khoản vay này cho tổ chức BHTG.
Tính đến nay, mục đích chung của hoạt động hỗ trợ tài chính của các tổ chức BHTG trên thế giới đều là: Bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và góp phần duy trì an toàn hệ thống tài chính (IADI, 2005). Mục tiêu này đã được chứng minh qua kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới như Ba Lan, Canada, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Mexico, Venezuela. Với Mỹ, mục tiêu của hoạt động này nhằm tránh cho tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn, nhất là những tổ chức tài chính lớn có nguy cơ mất khả năng thanh toán khỏi bị đóng cửa (FDIC, 1998, tr. 152). Riêng CDIC, hỗ trợ tài chính đóng góp to lớn trong duy trì ổn định hoạt động ngân hàng ở Đài Loan, đặc biệt đối với hiện tượng đột biến rút tiền gửi ngân hàng. Từ tháng 6/1990 đến tháng 4/2004, CDIC được hỗ trợ giải quyết thành công khó khăn của 54 tổ chức huy động tiền gửi bị đột biến rút tiền (CDIC, 2006, tr.45-48).
Theo khảo sát vào tháng 8/2005 tại 16 quốc gia có sử dụng hình thức hỗ trợ tài chính của Tiểu ban xử lý đổ vỡ ngân hàng của IADI, tổ chức BHTG hoặc Cơ quan giám sát tại một số quốc gia sẽ cử một nhóm quản lý mới tới tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng thanh toán hoặc yêu cầu các tổ chức này thực hiện phương án tái cơ cấu ngân hàng trước khi cung cấp hỗ trợ. Đối với các quốc gia còn lại, ngân hàng bị mất khả năng thanh toán chỉ được nhận hỗ trợ khi vốn của họ thực sự bị suy giảm. Cũng theo nghiên cứu này thì hầu hết các quốc gia đều không giới hạn thời gian giải ngân cho một khoản hỗ trợ (IADI, 2005, tr.23).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hỗ trợ tài chính là một trong các giải pháp được nhiều nước lựa chọn trong hoạt động BHTG. Giải pháp này không những giúp hạn chế đổ vỡ ngân hàng mà còn giúp cải tổ và khôi phục hoạt động kinh doanh của ngân hàng mất khả năng thanh toán, đồng thời duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống.
Xử lý kịp thời và hiệu quả tổ chức tham gia BHTG có vấn đề góp phần tích cực trong việc duy trì và phát huy tính ổn định, an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng quốc gia. Nhà nghiên cứu Honohan và Klingebiel (2003) ước tính chi phí tài chính trung bình xử lý ngân hàng là 13% GDP trong giai đoạn khủng hoảng. Sự đổ vỡ của các ngân hàng riêng lẻ còn có thể gây tổn thất kinh tế và tài chính lớn đối với người gửi tiền, người cho vay và người đóng thuế. Tác động của đổ vỡ ngân hàng đối với từng cá nhân và toàn nền kinh tế đã khẳng định vai trò của hoạt động xử lý kịp thời và hiệu quả các tổ chức có vấn đề.
Tại Mỹ, FDIC sử dụng 3 phương pháp xử lý cơ bản đối với các tổ chức có nguy cơ đổ vỡ: Các giao dịch mua và nhận nợ thay (P&A); Chi trả tiền gửi được bảo hiểm (Pay-off); Các giao dịch hỗ trợ ngân hàng mở (OBA).
Tiếp theo đó, luật pháp Mỹ cho phép FDIC thực hiện trách nhiệm là cơ quan quản lý tài sản của các tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng đổ vỡ.
Tại Đài Loan, điều 15 Luật BHTG qui định: trong trường hợp một tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan có thẩm quyền đóng cửa, để duy trì trật tự của hệ thống tín dụng và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền hoặc người thụ hưởng chỉ định đối với tiền gửi uỷ thác tại các tổ chức tham gia BHTG, CDIC phải thực hiện trách nhiệm bảo vệ người gửi tiền bằng một trong 4 hình thức sau: Chi trả trực tiếp bằng tiền mặt; Chuyển tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức đổ vỡ sang tổ chức tài chính khác; Hỗ trợ tài chính tổ chức tham gia BHTG; Tiếp nhận hoặc tiếp tục tạm thời vận hành các tổ chức đóng cửa.
Kinh nghiệm cho thấy, các nhà hoạch định chính sách hiện nay có xu hướng coi BHTG là công cụ quan trọng nhằm bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, vai trò của tổ chức BHTG trở nên đặc biệt quan trọng trong việc xử lý ngân hàng đổ vỡ, ngăn ngừa hiện tượng hoảng loạn, rút tiền hàng loạt và đổ vỡ hệ thống. Mặc dù cho đến nay, thế giới chưa có một mô hình tổ chức BHTG thống nhất áp dụng cho tất cả các quốc gia, song theo khảo sát, nghiên cứu của Uỷ ban Basel và IADI, điều kiện tiên quyết cho hệ thống BHTG hiệu quả gồm: cơ sở pháp lý đầy đủ, hoạt động độc lập, quản trị minh bạch, chức năng nhiệm vụ đầy đủ và cơ chế phối hợp chặt chẽ với các thành viên tham gia mạng lưới an toàn tài chính quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1. Uỷ ban Basel và Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế, “Core Principles for Effective Deposit Insurance Systems”, June 2009.
2. BFG (2001), The bank Guarantee Fund’s operations (1995-2001)
3. CDIC (2006), CDIC-20 years in retrospect 1985-2005
4. IADI (2005), General guidance for resolution of bank failures
5. FDIC (1998), A brief history of deposit insurance in the United States
6. FDIC, 2003, Resolutions Handbook