Theo Quyết định số 31/QĐ- NHNN ngày 18 tháng 7 năm 2006 quy định về tiêu chuẩn của thành viên HĐQT, thành viên Ban kiểm soát và người điều hành QTDND. Đây là Quyết định nhằm chuẩn hóa đội ngũ ban lãnh đạo hệ thống QTDND. Tuy nhiên trên thực tế tại một số địa phương, vấn đề này chưa được chuẩn như mong muốn, một số nơi vẫn còn cán bộ chưa qua đào tạo, hoặc có đào tạo cũng ở dạng ngắn hạn, chưa thực sự chuyên sâu về tài chính ngân hàng, cá biệt vẫn còn một số đơn vị, Chủ tịch HĐQT, thành viên Ban kiểm soát vẫn làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, phương pháp làm việc mang tính chất cảm tính dựa trên kinh nghiệm thực tế và mối quan hệ làng xã…
Trên thực tế, hoạt động của hệ thống QTDNDCS chủ yếu là đi vay để cho vay, thời gian qua, tình hình biến động của nền kinh tế, lãi suất trên thị trường tài chính đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của hệ thống QTDNDCS, việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn do phải cạnh tranh lãi suất với các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn. Với khả năng tài chính eo hẹp tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm và hầu như không có được sự hỗ trợ hay hậu thuẫn từ bên ngoài dẫn đến tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cao.
Theo Quyết định số 493/2005/ QĐ-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2005 về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Tại các QTDNDCS việc phân loại nợ theo quy định này là chưa chính xác đặc biệt là nợ nhóm 2. Các QTDNDCS đều ý thức được rằng việc trích lập dự phòng rủi ro đều ảnh hưởng đến thu nhập của đơn vị, vì vậy để giảm chi phí các đơn vị đều cố tránh nhóm nợ này nên đã ảnh hưởng đến việc phân loại nợ và đánh giá khách quan chất lượng tín dụng, ngoài ra việc trả lãi, gốc không đúng hạn hoặc việc trả lãi không đầy đủ cũng đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch tài chính của đơn vị đặc biệt là một số QTDNDCS có kế hoạch tài chính dự thu dự chi.
Có thể nêu ra đây một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động của QTDNDCS
Về hồ sơ tín dụng: Phần lớn các hồ sơ tín dụng tại các QTDNDCS đều cho vay dưới dạng tín chấp. Vì việc đăng ký giao dịch đảm bảo đối với các đơn vị rất khó thực hiện, Nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong việc này là do có các QTNDCS chưa có sự ủng hộ từ phòng tài nguyên môi trường địa phương, thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo chưa đáp ứng theo quy định và các món vay nhỏ lẻ của thành viên vay vốn, nếu đăng ký giao dịch đảm bảo sẽ đẩy chi phí vay vốn lên khá cao. Việc xác định giá trị tài sản đảm bảo hoàn toàn theo cảm tính và thiếu khách quan.
Đối với các khoản vay đến hạn, việc mất khả năng thanh toán xảy ra khá phổ biến. Để làm “đẹp” Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính, một số QTDNDCS đã yêu cầu thành viên vay nóng ở ngoài để đáo hạn, sau đó cho vay lại ngay để trả nợ. Qua kiểm tra thực tế cho thấy, có đơn vị hôm nay trả nợ ngày mai cho vay lại ngay đúng khoản tiền trên. Với cách làm này cơ bản đã làm “sạch” Bảng cân đối tài khoản của đơn vị khi báo cáo với cơ quan có thẩm quyền, nhưng thực tế các đơn vị đã không đánh giá chính xác được khả năng việc sử dụng vốn vay của các thành viên. Việc này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động của các đơn vị, nếu việc này thường xuyên xảy ra các đơn vị sẽ không kiểm soát được rủi ro và nguy cơ vỡ nợ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Về rủi ro đạo đức: Một số QTDNDCS có hiện tượng vay ké, vay nóng, lập hồ sơ khống rút tiền đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình anh ninh chính trị tại địa phương, gây ảnh hưởng lòng tin của quần chúng nhân dân, đặc biệt là gây hoang mang cho người gửi tiền. Để chấn an dư luận và tạo lòng tin cho dân chúng đặc biệt là người gửi tiền Chi nhánh Ngân hàng nhà nước các tỉnh và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã phải vào cuộc để chấn an dư luận và khẳng định với dân chúng. Phía sau các QTDNDCS còn có sự quản lý và giám sát của NHNN và BHTGVN, nếu đơn vị đó giải thể hoặc phá sản thì BHTGVN sẵn sàng đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân từ phía QTDNDCS và thành viên vay vốn: Một số đơn vị vẫn chạy theo thành tích, bỏ qua các tiêu chuẩn khi thẩm định, trình độ cán bộ còn hạn chế một số không đáp ứng được yêu cầu đạo đức nghề nghiệp, việc kiểm tra giám sát vốn vay, tình hình sản xuất kinh doanh của thành viên vay vốn chưa thường xuyên và vẫn mang tính chất hình thức;
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế nhất là hệ thống công nghệ thông tin,báo cáo, chưa có bộ phận giám sát và theo dõi rủi ro chuyên biệt;
Thành viên vay vốn: Năng lực sản suất kinh doanh còn hạn chế nên việc vay vốn đầu tư chưa đạt hiệu quả như mong muốn nên đã ảnh hưởng đến việc trả nợ.
Nguyên nhân khách quan: Như đã nói ở trên hoạt động của QTDNDCS chủ yếu là ở nông thôn, mô hình sản xuất nhỏ, chủ yếu cho vay sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nên thời gian qua đã gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai, dịch họa, thị trường hàng hóa bấp bênh, môi trường kinh tế vĩ mô biến động liên tục, lạm phát cao ….cũng đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của thành viên vay vốn.
Thực tế cho thấy, hoạt động của hệ thống QTDNDCS thời gian qua là rất tích cực và hiệu quả, ngoài những thành quả đạt được không thể phủ nhận nhưng phía sau vẫn còn những vấn đề cần hoàn thiện và khắc phục:
Hoạt động của hệ thống QTDNDCS vẫn mang tính chất đơn điệu, tuy nhiên có sự hỗ trợ của QTDND Trung ương, Hiệp hội QTDND nhưng thực tế sự hỗ trợ này thời gian qua chưa được như các QTDNDCS mong muốn, việc vay vốn tại QTDND Trung uơng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lãi suất cao, thời gian vay chủ yếu là ngắn hạn…
Việc tuân thủ các quy định về hoạt động chưa được các QTDNDCS quan tâm đúng mức.
Trong hoạt động tín dụng, hồ sơ tín dụng chưa chặt chẽ, đánh giá khách hàng vay vốn vẫn mang tính chất cảm tính, khách hàng vay vốn đặc biệt là các món vay lớn chưa có phương án sản xuất kinh doanh, không chứng minh được nguồn trả nợ, tài sản đảm bảo tiền vay chưa đầy, chủ yếu vẫn là ở dạng tín chấp, hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, thành viên vay vốn là cộng đồng dân cư địa phương nên việc thẩm định và cho vay vẫn mang tính chất tình làng nghĩa xóm, quan hệ họ hàng vì vậy đôi khi thủ tục pháp lý về hoạt động tín dụng bị xem nhẹ…
Xuất phát từ những tồn tại nêu trên, trên cơ sở định hướng hoạt động cho hệ thống QTDNDCS với phương châm “ An toàn - hiệu quả -phát triển bền vững”.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân để hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân ngày càng hiệu quả, một số kiến nghị được đưa ra như sau:
Về công tác quản trị điều hành:
Tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc quyết định số 31/2006/QĐ- NHNN ngày 18 tháng 7 năm 2006 về quy định tiêu chuẩn của thành viên HĐQT, thành viên Ban kiểm soát và người điều hành QTDNDCS;
Kiện toàn bộ máy hoạt động nâng cao trình độ cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, chấm dứt chế độ kiêm nhiệm, lựa chọn người có đức, có tài làm việc tại đơn vị;
Xây dựng và ban hành đầy đủ các văn bản nghiệp vụ quy định về an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật;
Luôn cập nhật mới các thông tin liên quan đến hoạt động tài chính ngân hàng, có kế hoạch cụ thể để đối phó với những tình huống xấu xảy ra, chủ động trong công tác quản trị điều hành,tránh tình trạng chây ỳ, ỷ lại cấp trên.
Định kỳ có kế hoạch tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao ý thức trong công tác chuyên môn nghiệp vụ…
Ban hành quy định liên quan đến vấn đề trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm cá nhân về vấn đề bồi thường vật chất trong việc để xảy ra rủi ro gây tổn thất về tài sản của QTD
Về công tác huy động vốn:
Nhạy bén với thị trường, nhất là thị trường tài chính, có phương án vận động nhân dân, thành viên trên địa bàn gửi tiền tại QTD, nên có chính sách quản bá hình ảnh, có cơ chế khuyến mại, khen thưởng kịp thời đối với khách hàng trung thành;
Xây dựng lòng tin đối với người gửi tiền, đa dạng hóa các loại hình huy động vốn phù hợp với đơn vị mình;
Có cơ chế lãi suất hợp lý để cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn, trong thời điểm khó khăn cần có sự chấp nhận hoạt động không có lợi nhuận để giữ chân khách và tạo lòng tin đối với khách hàng;
Có chế độ khoán với cán bộ về việc tìm nguồn vốn nhàn rỗi, có chế độ khen thưởng động viên đến từng cán bộ làm tốt việc này;
Quan hệ tốt với chính quyền địa phương tranh thủ sự ủng hộ này để nâng cao vị thế, vai trò của đơn vị;
Tuyên truyền sâu, rộng về chính sách bảo hiểm tiền gửi của nhà nước để người dân hiểu, yên tâm khi gửi tiền tại đơn vị…
Về công tác tín dụng:
Hoạt động tín dụng phải được xác định là đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả, phải xác định quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp điều hành trong hoạt động tín dụng;
Xây dựng kế hoạch tín dụng hàng tháng, quý, năm, phù hợp với từng thời điểm, phù hợp với đặc điểm kinh tế của từng địa phương và phù hợp với năng lực của người được phân cấp, ủy quyền, căn cứ vào năng lực quản lý của người được phân cấp như quản lý địa bàn (thôn, xóm, ngành, nghề) để giao chỉ tiêu tín dụng cho phù hợp hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra;
Xây dựng và áp dụng giới hạn tín dụng để hạn chế rủi ro tín dụng, cần xây dựng và giới hạn tín dụng đối với từng loại hình nghành nghề, từng khách hàng một nhóm khách hàng theo quy đinh của pháp luật;
Đa dạng hóa các loại hình tín dụng để phân tán rủi ro. Mở rộng và có biện pháp để đưa việc áp dụng đăng ký giao dịch đảm bảo đối với các thành viên vay vốn nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhất là đối với rủi ro đạo đức và hạn chế tổn thất nếu có rủi ro xảy ra;
Về công tác cán bộ:
Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là cán bộ thẩm định tín dụng, cần bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm trong công tác thẩm định, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận về công tác thẩm định, cập nhật và xử lý thông tin về khách hàng để đánh giá khả năng, uy tín và năng lực của khách hàng;
Cán bộ nghiệp vụ phải được chuyên môn hóa cao, có chế độ ưu tiên đãi ngộ để họ yên tâm làm việc.
Có kế hoạch chuẩn hóa đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu công việc, có chính sách đào tạo và đãi ngộ hợp lý thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ đào tạo…;
Về công tác kiểm tra giám sát:
Tăng cường kiểm tra, giám sát, trước và sau cho vay tránh để khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích;
Thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ chính xác, đánh giá nghiêm túc các khoản nợ quá hạn để có kế hoạc đối phó phù hợp, hạn chế tối đa việc ra hạn nợ nhằm tránh việc này trở thành tiền lệ đối với khách hàng vay vốn, đẩy mạnh công tác xử lý rủi ro.
Về thiết bị công nghệ
Tăng cường đầu tư, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin,các phần mềm nghiệp vụ nhằm đảm bảo việc quản lý thống nhất,kịp thời và chính xác.
Thời gian qua Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực hiện cài đặt chương trình chuyển file thông tin báo cáo và hướng dẫn cán bộ thực hiện tới tất cả các tổ chức là QTDNDCS trên toàn quốc, chương trình này được miễn phí hoàn toàn, khi cài đặt xong đưa vào sử dụng nếu các QTDNDCS thực hiện tốt việc chuyền file báo cáo thì sẽ không phải gửi báo cáo giấy cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, với việc làm này sẽ giúp đơn vị đơn giản hóa việc nộp các loại báo cáo định kỳ cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, thay vì hàng tháng các QTDNDCS phải đến BHTG nộp báo cáo trực tiếp hoặc phải ra bưu điện nộp thì nay chỉ cần thời gian rất ngắn thao tác có thể thực hiện xong việc này.
Về cơ chế chính sách của pháp luật:
Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn nữa đến hoạt động của hệ thống QTDNDCS, có cơ chế chuyên biệt, có sự ưu tiên trong hoạt động, có cơ chế miễn, giảm thuế đối với loại hình tổ chức này, nên có một cơ chế tài chính đủ mạnh để xử lý các tình huống đột biến xảy ra.
Việc chuyển đổi mô hình Hợp tác xã tín dụng chuyển sang mô hình hệ thống QTDNDCS đến thời điểm này cơ bản đã đúng hướng đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, mô hình này đã làm thay đổi diện mạo nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên với cơ chế hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, các cam kết trong hoạt động tài chính với các tổ chức tài chính nước ngoài khi Việt Nam ra nhâp WTO, hệ thống QTDNDCS trong thời gian tới phải có một định hướng hoạt động phù hợp đồng thời với việc liên kết chặt chẽ với chính quyền địa phương. Nhà nước cần có chính sách bảo hộ nhất định, ưu tiên giúp hệ thống này tồn tại và phát triển. Để làm được việc này cần có những nghiên cứu kết hợp với tổng kết tình hình hoạt động thực tiễn của hệ thống QTDNDCS trên phạm vi toàn quốc từ đó đưa ra mô hình chuẩn cho hệ thống QTDNDCS.