Với hệ thống BHTG, lợi ích của người gửi tiền được bảo vệ một cách thiết thực; lòng tin của người dân tăng lên đồng thời với một khối lượng vốn lớn trong dân được huy động vào sản xuất-kinh doanh; hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thêm một kênh giám sát tăng cường chất lượng hoạt động; những quyết định nhiều rủi ro ở cả phạm vi Vĩ mô và vi mô được cảnh báo, ngăn ngừa.
Vai trò của BHTG càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, khi mà mọi quốc gia, mọi cá nhân đều dễ dàng bị tổn thương bởi những cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trên thế giới. BHTG không chỉ là giải pháp cuối cùng bảo vệ lợi ích người gửi tiền khi tổ chức nhận gửi tiền gặp rủi ro, đổ vỡ mà còn là biện pháp phòng ngừa, hạn chế những khả năng đổ vỡ xảy ra.
Chính sách BHTG là trụ cột cho toàn bộ vấn đề tổ chức, hoạt động của hệ thống BHTG. Từ khi bắt đầu được hình thành cho đến nay, các chính sách cơ bản liên quan đến tổ chức, hoạt động của hệ thống BHTG đã được liên tục sửa đổi, bổ sung kịp thời. Hệ thống văn bản pháp luật này là nhân tố quan trọng cho những thành quả tốt đẹp của hệ thống BHTG trong thời gian qua (xin cho phép không đi sâu phân tích những vấn đề chính sách thành công). Tuy nhiên, các chính sách hiện hành về BHTG còn bộc lộ một số hạn chế. Sau đây, xin lần lượt phân tích các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đồng thời cũng là những mong muốn của tác giả bài viết này để các cấp hữu quan có thể hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách về BHTG:
1. Quy định về hạn mức BHTG. Quy định hạn mức BHTG hiện hành được áp dụng theo Khoản 3 Điều 1 Nghị Định 109/2005/NĐ-CP và Khoản 29 Mục VI Thông tư 03/2006/TT-NHNN. Số tiền bảo hiểm được trả cho một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG, tối đa là 50 triệu đồng.
Việc quy định hạn mức BHTG bằng con số tuyệt đối (50 triệu đồng) trong văn bản pháp luật cấp Nghị Định trở lên là không phù hợp vì ba lý do chính. Thứ nhất, thu nhập của nhân dân không ngừng tăng lên, mức gửi tiền cũng tăng lên tương ứng. Quy định hạn mức bằng một giá trị tuyệt đối như thế này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến việc khuyến khích nhân dân gửi tiền tăng thêm. Thứ hai, do lạm phát nên con số tuyệt đối lạc hậu khá nhanh so với trị giá thời điểm văn bản được ban hành. Quy định con số tuyệt đối, vô hình chung, ngày càng thu hẹp biên độ giá trị thực của số tiền gửi được bảo hiểm so với thời giá. Dường như đây cũng là một tác động tiêu cực đến chủ trương huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Thứ ba, văn bản pháp luật từ Nghị Định trở lên khó có thể bổ sung, sửa đổi trong thời gian ngắn (hàng năm hoặc ngắn hơn). Do đó quy định hạn mức bằng con số tuyệt đối trong Nghị Định càng làm cho văn bản dễ dàng lạc hậu trong cuộc sống xã hội.
Đề xuất: Hạn mức BHTG do nhiều nhân tố kinh tế, tài chính chi phối. Hạn mức này cần thỏa mãn điều kiện: (i) bảo đảm duy trì lòng tin của đa số người gửi tiền vào hệ thống tài chính-ngân hàng, đồng thời (ii) tránh được tình trạng rủi ro đạo đức nếu tỷ lệ bảo hiểm cao đến mức dẫn đến hành vi thiếu chọn lọc của người gửi tiền, và thiếu trách nhiệm của người nhận tiền. Do đó, hạn mức này cần được lượng hóa bằng những nghiên cứu khoa học, cụ thể và đáng tin cậy, có thể do BHTG Việt Nam định kỳ đứng ra phối hợp với các cơ quan nghiên cứu thực hiện, đề xuất hạn mức bảo hiểm trong từng giai đoạn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội và quan điểm phát triển.
Về quy trình đề xuất, ban hành: Hạn mức BHTG (căn cứ trên kết quả nghiên cứu) sẽ do BHTG Việt nam đề xuất, và được Thống đốc Ngân hàng TW phê chuẩn, áp dụng và ban hành bằng một Thông tư. Đương nhiên hạn mức này phải tuân theo quan điểm chính trị của Đảng và Quốc hội, và trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, song không nhất thiết phải ban hành thông qua Luật (Quốc Hội) hoặc Nghị Định (Chính phủ).
2. Chứng nhận BHTG và Giám sát rủi ro. Các quy định pháp lý liên quan tới việc cấp/thu hồi chứng nhận BHTG và Giám sát rủi ro hiện chưa tạo điều kiện chặt chẽ để BHTG VN hoạt động một cách hữu hiệu. BHTG VN chưa có quyền thực hiện chế tài gì đối với những tổ chức tín dụng vi phạm các quy định liên quan, ví dụ như việc thu hồi chứng nhận; từ chối cấp chứng nhận đối với tổ chức tín dụng… Trong hoạt động giám sát rủi ro, khi phát hiện nguy cơ mất khả năng chi trả thì BHTG chỉ được phép yêu cầu tổ chức tín dụng chấn chỉnh và báo cáo NHNN xử lý. Như vậy, BHTG VN mới được giao một số quyền hành chính hạn chế mà chưa được sử dụng cơ chế thị trường và các quy luật kinh tế vào việc giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG.
Đề xuất: BHTG VN cần được giao quyền giám sát rủi ro và xếp hạng BHTG độc lập. Để các tổ chức tín dụng tự giác phối hợp chặt chẽ với BHTG thì BHTG cần được phép định kỳ công bố Mức Xếp hạng BHTG đối với các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống Tài chính-ngân hàng, đồng thời công bố tên các tổ chức tín dụng bị thu hồi chứng nhận BHTG hoặc bị từ chối cấp chứng nhận BHTG. Những thông tin này được công khai trong xã hội sẽ có giá trị giúp người gửi tiền lựa chọn tổ chức gửi tiền đáng tin cậy. Việc lựa chọn của nhân dân theo thông tin có giá trị từ phía BHTG là động lực buộc các tổ chức nhận tiền gửi tăng cường hiệu quả và chất lượng phục vụ nhân dân, đồng thời sẵn sàng hợp tác với BHTG và tuân thủ các quy định liên quan.
3. Vấn đề thông tin, truyền thông. Khá nhiều người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi nhưng không biết mình được hưởng quyền lợi của BHTG. Mặt khác, khá nhiều người thực hiện giao dịch tín dụng, ngân hàng không quan tâm đến mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng/ngân hàng ấy. Việc quyết định thực hiện các giao dịch này phần nhiều vì địa điểm thuận lợi hoặc phong thái giao tiếp của nhân viên. Hạn chế này bắt nguồn từ vấn đề thông tin, truyền thông có hạn chế của BHTG, và quan trọng nhất là vì BHTG chưa có chức năng xếp hạng và công bố công khai mức xếp hạng rủi ro của các tổ chức nhận tiền gửi.
Đề xuất: BHTG cần có chính sách quảng bá sâu rộng hơn lợi ích của BHTG đối với mỗi người gửi tiền. Mặt khác, cần có quy định về nghiên cứu, xếp hạng rủi ro BHTG đối với các tổ chức nhận tiền gửi và định kỳ công bố danh sách xếp hạng này cho công chúng được biết.
4. Vai trò của BHTG đối với các vấn đề kinh tế vĩ mô. Một mục tiêu trọng tâm của BHTG là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. So với tình huống một tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả thì ảnh hưởng tiêu cực của các vấn đề vĩ mô cũng có hậu quả to lớn Thực tế cho thấy những đợt lạm phát cao đã gây tổn thất nặng nề cho những người gửi tiền và để lại di chứng nặng nề cho nền kinh tế. Sự bất ổn Vĩ mô có liên hệ mật thiết đến chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ.
Trong các đơn vị có chức năng tư vấn và phản biện độc lập, BHTG cần được xây dựng chức năng tư vấn và phản biện độc lập, đặc biệt là chức năng đánh giá về tình hình kinh tế và phản biện về chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ. Đây có lẽ là chức năng quan trọng nhất đồng thời cũng là thách thức lớn nhất của BHTG VN. Việc BHTG VN làm tốt vai trò tư vấn, phản biện đối với các vấn đề kinh tế vĩ mô có giá trị cốt lõi cho các chức năng kiểm tra, giám sát, xử lý vụ việc… như đã đề cập trên đây, và chắc chắn là hoạt động có ý nghĩa lớn nhất của việc bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền khi hạn chế được các rủi ro tầm Vĩ mô.
Đề xuất: BHTG VN cần được thể chế hóa chức năng tư vấn, phản biện các vấn đề vĩ mô, trong đó đặc biệt quan trọng là phản biện độc lập về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. BHTG VN cũng cần kiện toàn để tăng cường năng lực phân tích, dự báo tình hình kinh tế vĩ mô làm cơ sở cho các quyết định tài chính trung hạn cho các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động tiền gửi.
Trên đây là những suy nghĩ chủ quan của cá nhân tôi nhưng không ngoài mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình cho sự phát triển lớn mạnh của BHTG VN nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Kính chúc Quý vị sức khỏe và thành đạt. Chúc BHTG VN ổn định và thịnh vượng.