Vốn huy động tại các tổ chức tín dụng được hình thành từ nhiều nguồn. Trong đó nguồn tiền huy động từ trong dân chiếm từ 60% - 70%, chủ yếu là tiền gửi của người dân có mức thu nhập thấp và trung bình. Đó là những khoản tiền lương, tiền công, tiền dành dụm, tích lũy của những người lao động tay chân, viên chức, công nhân, người buôn bán nhỏ. Qua số liệu khảo sát tiền gửi năm 2008 và năm 2009 tại khu vực ĐBSCL cho thấy: số lượng người có số tiền từ dưới 50 triệu đến dưới 150 triệu đồng chiếm bình quân 90% tổng số người gửi tiền, tăng từ 50% đến trên 150%. Theo đó, giá trị tiền gửi từ nhóm gửi tiền chủ lực này tăng từ 100% đến 150%, Theo đánh giá của các tổ chức nhận tiền gửi và cơ quan chức năng thì đây là kênh huy động vốn có tính ổn định cao hỗ trợ tích cực cho tổ chức tín dụng trong quá trình cung cấp vốn phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế địa phương.
Sự biến động khó lường của thị trường giá cả, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vàng, ngoại tệ thời gian qua không chỉ là sự thách thức các tập đoàn kinh tế - tài chính khổng lồ và các doanh nghiệp. Nó còn gây ra những tác động nặng nề về tâm lý đối với người dân nói chung và người gửi tiền nói riêng. Những người gửi tiền, họ cũng chính là những người tiêu dùng. Họ không thể và cũng không biết cách tự bảo vệ quyền lợi của mình trước những tác động trên. Thông tin về chất lượng hoạt động cũng như chất lượng dịch vụ cũng là câu hỏi đặt ra của người gửi tiền đối với ngân hàng mà họ đã, đang và sẽ sử dụng dịch vụ.
Về việc bảo hiểm tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, tiền gửi của người dân cũng đã được bảo hiểm. Nhưng từ năm 2007 trở lại đây hạn mức bảo hiểm vẫn ở mức 50 triệu đồng trong khi tốc độ trượt giá và mức thu nhập bình quân đầu người (GDP) tăng nhanh hàng năm. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, GDP đầu người năm 2007 là 834 USD, năm 2008 là 1.034 USD và năm 2009 khoảng 1.100 USD. Mà thông lệ Quốc tế về bảo hiểm tiền gửi thì hạn mức bảo hiểm tiền gửi được nâng lên hay hạ xuống phụ thuộc vào tình hình kinh tế, GDP đầu người của mỗi quốc gia.
Về phía các tổ chức nhận tiền gửi, để có vốn, các hình thức khuyến mãi hấp dẫn lần lượt được tung ra như tặng tiền, tặng hiện vật và tặng cả lãi suất nhằm thu hút người gửi tiền. Điểu đó khiến người ta nghĩ rằng thực sự là rất lợi đối với người gửi tiền. Song thực tế còn tùy vào sự nhiều hay ít của giá trị tiền gửi. Nếu mức tiền gửi trên 100 triệu đến hàng tỷ đồng, ngoài quà tặng sẽ được hưởng mức lãi suất cao hơn. Đó là chính sách ngầm bất thành văn nhằm thu hút, giữ khách hàng của nhiều ngân hàng. Nó cũng cho thấy sự công bằng đối với những người có mức tiền gửi thấp hay những người có thu nhập thấp. Trong trường hợp này, người gửi tiền cũng như người tiêu dùng thông thường khác, họ được đối xử theo kiểu “tiền nào, của nấy”.
Liên quan đến việc bảo vệ người gửi tiền, pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã ra đời và được trải nghiệm trong thực tế hơn 10 năm qua. Sự ổn định và tăng trưởng hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta, niềm tin của người gửi tiền được củng cố, giữ vững. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đất nước chịu tác động, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới, là minh chứng thực tế khẳng định cho tính đúng đắn, khách quan của chính sách này
Tuy nhiên, qua thực tế triển khai và cũng trải nghiệm bởi khủng khoảng tài chính, chính sách BHTG đã bộc lộ nhiều nội dung bất cập, không còn phù hợp. Đó là (1) hạn mức bảo hiểm tiền gửi tối đa 50 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp với mức thu nhập bình quân của số đông người dân và với GDP bình quân đầu người của nước ta. (2) đối tượng và phạm vi tiền gửi được bảo hiểm cũng được công chúng, các cơ quan chức năng và tổ chức tham gia BHTG đề nghị mở rộng nhằm thu hút nguồn vốn và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. (3) văn bản pháp lý về BHTG hiện tại dừng ở mức Nghị định, chưa có văn bản Luật BHTG điều chỉnh thống nhất với pháp luật liên quan. (4) Mức phí BHTG thu đồng đếu chung cho các tổ chức tham gia BHTG không kích thích cạnh tranh lành mạnh, không đảm bảo nguyên tắc thị trường là tổ chức hoạt động tốt, chất lượng không thể như đơn vị hoạt động yếu kém. Cũng xuất phát từ những hạn chế, bất cập trong chính sách BHTG nên chưa phát huy tốt nhất vai trò chủ động bảo vệ quyền lợi người gửi tiền thông qua các hoạt động nghiệp vụ BHTG kiểm tra, giám sát cũng như thẩm quyền xử lý những tổ chức không tuân thủ pháp luật về BHTG.