Lãi suất tiền gửi tăng nhẹ
Theo thống kê của NHNN, huy động vốn toàn quốc đến 27/9/2024 đạt trên 14,49 triệu tỷ đồng tăng 4,79% so với cuối năm 2023. Đến thời điểm tháng 30/9/2024, tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư vào hệ thống ngân hàng đã tăng trở lại, với mức tăng trưởng của toàn hệ thống đạt 4,86%, trong đó các cấu phần tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư đều tăng trưởng cao hơn, đạt lần lượt là 3,29 % và 6,51%. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác nhiều rủi ro, người dân vẫn lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng vì vừa được hưởng lãi suất vừa đảm bảo an toàn, được bảo hiểm tiền gửi.
Trên thị trường, một số ngân hàng thương mại (NHTM) tiếp tục điểu chỉnh tăng nhẹ lãi suất. Lãi suất tiết kiệm cao nhất tháng 9/2024 kỳ hạn 3 tháng là 4,3%/năm, được áp dụng tại Eximbank. Đứng ở vị trí thứ 2 là OceanBank 4,2%/năm. Ngân hàng Quốc dân (NCB) áp dụng lãi suất 4%/năm với tiền gửi kỳ hạn 3 tháng. Những ngân hàng DongABank, HDBank, cùng áp dụng lãi suất 3,95% cho tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, cao thứ 3 hệ thống. Như vậy, tại 1 số ngân hàng thương mại, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng đang tiến dần lên mức trần mà NHNN quy định (4,75%/năm cho các kỳ hạn dưới 6 tháng).
Lãi suất tiết kiệm cao nhất tháng 9/2024 kỳ hạn 6 tháng là 5,4%/năm, được áp dụng tại CBBank. Đứng thứ 2 là NCB với 5,35%/năm. Những ngân hàng áp dụng lãi suất cao với tiền gửi kỳ hạn 6 tháng còn có VietBank, EximBank 5,2%/năm; HDBank, VietCapitalBank cùng 5,1%/năm; DongABank 5,13%/ năm. Lãi suất tiết kiệm 6 tháng tại VPBank, ABBank, BacABank, BaoVietBank, SHB, OceanBank cùng 5%/năm.
Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 9 tháng tại hầu hết các ngân hàng cao hơn kỳ hạn 6 tháng khoảng 0,1-0,3%. Tuy nhiên, 1 số ngân hàng ngược dòng khi lãi suất kỳ hạn 9 tháng thấp hơn 6 tháng như HDBank, EximBank, CBBank... Lãi suất tiết kiệm cao nhất tháng 9/2024 kỳ hạn 9 tháng là 5,55%/năm áp dụng tại NCB; tiếp đến là VietCapitalBank 5,5%/năm; DongABank 5,42%/năm; CBBank 5,35%/năm.
Lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng cao hơn các kỳ hạn 6-9 tháng từ 0,4 tới 1%. Lãi suất tiết kiệm cao nhất tháng 9/2024 kỳ hạn 12 tháng là 5,8%/năm được áp dụng tại VietCapitalBank, SaigonBank. Tiếp đó là Techcombank 5,75%/năm; DongABank 5,72%/năm.
Về điều hành lãi suất của NHNN, trong các tháng đầu năm 2024, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành nhằm tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp để góp phần hỗ trợ nền kinh tế. Đồng thời, NHNN chỉ đạo tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay; yêu cầu các TCTD công khai lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân cũng như thông tin về lãi suất cho vay các gói, chương trình tín dụng, sản phẩm (nếu có) trên website của ngân hàng, qua đó, nhằm cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tham khảo khi tiếp cận vốn vay.
Theo đó, mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay tiếp tục có xu hướng giảm. Đến tháng 8/2024, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân tại thời điểm cuối kỳ báo cáo (bao gồm cả số dư cũ và mới) giảm khoảng hơn 1%/năm so với cuối năm 2023. Đến ngày 20/9/2024, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới giảm 0,63%/năm so với cuối năm 2023, lãi suất tiền gửi tăng nhẹ khoảng 0,3%/năm so với cuối năm 2023.
Trước đó, từ năm 2023, thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, NHNN đã điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm, qua đó định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tiếp tục giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp
Trên thị trường thế giới, ngày 18/9/2024 (giờ Mỹ), Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã hạ lãi suất thị trường mở liên bang (Fed Funds Rate) 0,5 điểm % xuống mức 4,75% - 5%, chính thức bắt đầu chu kỳ nới lỏng chính sách tiền tệ.
Từ đầu năm 2024 đến nay, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới đã bắt đầu xu hướng cắt giảm lãi suất. Việc Fed điều chỉnh giảm lãi suất vừa qua sẽ góp phần giảm áp lực lên mặt bằng lãi suất trong nước. Bên cạnh đó, trước khi Fed cắt giảm lãi suất, NHNN đã chủ động có những bước điều chỉnh giảm lãi suất điều hành từ năm 2023 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Những tháng cuối năm, các chuyên gia cho rằng, điều hành chính sách tiền tệ đối mặt với thách thức và rủi ro từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Rủi ro từ bên ngoài đó là giá dầu và các loại năng lượng khác có thể tiếp tục biến động, tạo áp lực lớn lên lạm phát trong nước. Đây là yếu tố mà NHNN khó kiểm soát và cần có các biện pháp dự phòng thích hợp. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại giữa các cường quốc kinh tế có thể tác động đến dòng vốn và thương mại quốc tế, ảnh hưởng gián tiếp đến kinh tế Việt Nam. Với áp lực nội tại, lạm phát đã có dấu hiệu gia tăng do giá cả hàng hóa và dịch vụ leo thang, đặc biệt là giá hàng hóa thế giới còn ở mức cao. Một số ngành kinh tế vẫn đang gặp khó khăn trong việc phục hồi hoàn toàn sau đại dịch, ảnh hưởng sau bão số 3 dẫn đến khả năng hấp thụ vốn thấp. Điều này có thể làm giảm hiệu quả của các chính sách tín dụng hỗ trợ tăng trưởng.
Tuy nhiên, một số chuyên gia cũng cho rằng, mặc dù nền kinh tế ẩn chứa nhiều bất định, chưa lường trước được, áp lực về lạm phát lên điều hành chính sách tiền tệ là có, nhưng sẽ không lớn. Bởi nhiều tổ chức quốc tế dự báo lạm phát toàn cầu tiếp tục xu hướng giảm trong thời gian tới. Dự báo trên dựa trên cơ sở giá dầu và các mặt hàng năng lượng khác đã giảm đáng kể so với mức đỉnh năm ngoái; tăng trưởng một số nền kinh tế lớn vẫn còn yếu... Điều này góp phần giảm đáng kể áp lực lên lạm phát. Ở trong nước, việc điều chỉnh tăng lương đã không tác động mạnh lên lạm phát. Theo đó, lạm phát trong nước dự báo vẫn đạt được mục tiêu đặt ra là dưới 4,5%.
Bên cạnh đó, cầu tín dụng có xu hướng tăng lên mạnh hơn từ giữa năm 2024 khi sản xuất và đầu tư tăng tốc trong những tháng cuối năm. Do đó, nhiều dự báo cho thấy, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại (NHTM) lớn sẽ có thể nhích thêm 50 điểm cơ bản, quay về mức 5,2% - 5,5% vào cuối năm 2024. Tuy nhiên, lãi suất đầu ra sẽ vẫn duy trì ở mặt bằng hiện tại trong bối cảnh các cơ quan quản lý và các NHTM đang nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn.
Để đối phó với những thách thức nêu trên, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, phối hợp chặt chẽ với các chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đồng thời, NHNN cần tiếp tục tăng cường công tác giám sát, đảm bảo dòng vốn bổ sung phân bổ hiệu quả, tín dụng được giải ngân vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hiệu quả, tránh tình trạng nợ xấu gia tăng. Thời gian tới, NHNN cho biết, tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế trong nước, lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí để phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Hà Linh