* Thứ nhất, phải làm rõ khái niệm “Tiền gửi” và “Tiền gửi được bảo hiểm”?
Khái niệm “Tiền gửi” là một khái niệm rất rộng. Trong hoạt động ngân hàng, khái niệm này được sử dụng để chỉ các khoản tiền được gửi ở các Tổ chức tín dụng (TCTD) dưới nhiều hình thức khác nhau của nhiều chủ thể khác nhau. Tại Luật các Tổ chức tín dụng, Điều 20 khoản 9 có đưa ra định nghĩa về tiền gửi như sau: "Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền". Ngoài định nghĩa tại Luật các TCTD nói trên, tại NĐ số 70/2000/NĐ-CP của Chính phủ về giữ bí mật thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách hàng gửi tại các TCTD cũng đưa ra một quy định về tiền gửi như sau: "Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền Đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn (kể cả tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền gửi khác)". Như vậy, cả hai định nghĩa trên đây theo tôi đều chưa thật sự rõ ràng, không nói lên được bản chất thế nào là “Tiền gửi” mà chỉ là một cách định nghĩa theo phương pháp liệt kê.
Trên cơ sở quy định của NĐ 89 nói trên, Tại Thông tư hướng dẫn số 03/2000/TT-NHNN5 ngày 16/03/2000, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cụ thể hóa khái niệm “Tiền gửi” được bảo hiểm gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn;
- Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân;
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.
Theo hướng dẫn trên đây của NHNN thì tiền gửi tiết kiệm dưới mọi hình thức, tiền mua chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu ghi danh đã được xác định rõ là thuộc đối tượng BHTG. Tuy nhiên, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân vẫn là một khái niệm không định lượng được. Chính vì không định lượng cụ thể là những loại tiền gửi nào, nên thực tế đã nẩy sinh nhiều phức tạp, gây lúng túng và xử lý thiếu thống nhất của các TCTD, đặc biệt là thời kỳ chưa ban hành NĐ 109/2005 về sửa đổi, bổ sung NĐ 89/1999.
Như vậy, vấn đề nói trên, đến nay cũng một số câu hỏi như: Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền (ví dụ như tiền ký quỹ); tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu vô danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành (mà hiện nay chưa được bảo hiểm) có phải là tiền gửi được bảo hiểm không? Hoặc có nên cho rằng, mọi loại tiền được quan niệm là tiền gửi thì đều được bảo hiểm không? Tuy nhiên, theo tôi, dù quan niệm như thế nào thì về mặt kỹ thuật, Luật BHTG cũng rất cần phải quy định rõ và cụ thể những loại tiền gửi nào được bảo hiểm, điều đó cũng có nghĩa là những loại tiền gửi nào không được quy định trong Luật thì không thuộc phạm vi được bảo hiểm.
* Thứ hai, chỉ bảo hiểm tiền gửi của cá nhân và một số tổ chức có tính chất tư nhân như quy định hiện hành hay cần phải mở rộng hơn? Quan điểm của chúng ta khi xây dựng cơ chế BHTG theo NĐ 89/1999 là chỉ bảo hiểm cho những người gửi tiền nhỏ, ít có khả năng tự bảo vệ mình trước những rủi ro có thể xấy ra. Vì vậy, đối tượng được bảo hiểm theo NĐ 89/1999 chỉ là tiền gửi của cá nhân, sau đó NĐ 109/2005 đã quy định rõ hơn (thực chất là mở rộng hơn) đến các đối tượng được bảo hiểm, bao gồm các hộ gia đình, các tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh - là những thực thể có cơ cấu tổ chức (thậm chí là có tư cách pháp nhân như công ty hợp danh), không phải là một cá nhân nhưng có tính chất tư nhân. Chúng tôi cho rằng, ở thời điểm hiện nay khi xây dựng Luật BHTG cũng cần đặt ra vấn đề là: Vẫn chỉ bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền nhỏ hay cho tất cả những người gửi tiền (cả cá nhân và tổ chức)? Hoặc nếu vẫn chỉ là những người gửi tiền nhỏ thì có nên mở rộng phạm vi hơn so với hiện nay hay không? Hoặc có thể đưa ra một tiêu chí khác như bảo hiểm cho tiền gửi của tất cả các cá nhân và tổ chức thuộc sở hữu tư nhân chẳng hạn. Vì trên thực tế, theo NĐ 109/2005 chúng ta đã bảo hiểm cho tiền gửi của cả doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, nên có ý kiến cho rằng, như vậy thì tại sao lại không bảo hiểm cho tiền gửi của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân là chủ sở hữu?
*Thứ ba, “Tiền gửi” được bảo hiểm chỉ là Đồng Việt Nam như hiện nay hay có thể mở rộng ra cả tiền gửi ngoại tệ? Đây cũng là một vấn đế rất đáng được quan tâm? Năm 1999 khi xây dựng NĐ 89/1999 hình thành cơ chế bảo hiểm, đây cũng là một vấn đề được trao đổi nhiều. Cũng có ý kiến đề nghị không chỉ bảo hiểm cho tiền gửi bằng Đồng Việt Nam mà cả tiền gửi bằng ngoại tệ. Ý kiến này cho rằng, nếu chỉ bảo hiểm tiền gửi bằng Đồng VN thì có thể sẽ không khuyến khích người có ngoại tệ gửi tiền vào ngân hàng, hoặc họ sẽ phải chuyển đổi ngoại tệ thành tiền Việt Nam, sẽ mất thêm chênh lệch tỷ giá và phí chuyển đổi. Ngược lại, có nhiều ý kiến cho rằng, việc bảo hiểm cả tiền gửi là ngoại tệ có thể sẽ dẫn đến khuyến khích việc sử dụng ngoại tệ, ảnh hưởng đến giá trị đồng nội tệ cũng như quản lý nhà nước về ngoại hối. Mặt khác, khả năng tài chính của chính phủ là có hạn, không có khả năng bảo hiểm hết cho tất cả các khoản tiền gửi. Do vậy, NĐ 89/1999 chỉ dừng lại ở việc bảo hiểm tiền gửi là Đồng Việt Nam, và theo chúng tôi, quy định ở thời điểm đó là hợp lý. Tuy nhiên, đến thời điểm này cũng có thể đặt vấn đề là có thể mở rộng sang đối tượng là ngoại tệ? BHTG đối với cả ngoại tệ có thể sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng, TCTD thu hút được nguồn ngoại tệ lớn từ trong nhân dân, khuyến khích lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về Việt Nam cho đầu tư, phát triển đất nước. Đây cũng là một vấn đề đáng được quan tâm và cần có câu trả lời từ các nhà hoạch định chính sách.
2. Về “Phí bảo hiểm tiền gửi”:
Trên cơ sở quy định của Chính phủ tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP, ngày 24/8/2005 về bảo hiểm tiền gửi (BHTG), DIV đã có hướng dẫn cụ thể việc tính, nộp phí BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG. Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện, đến nay việc tính và nộp phí của các tổ chức tham gia BHTG cũng như việc quản lý, theo dõi, đôn đốc thu phí của DIV đã đi vào nền nếp và đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục hoàn thiện nhằm tạo sự thuận tiện hơn cho các tổ chức tham gia BHTG.
Cơ chế thu phí BHTG đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (đơn vị) được quy định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về BHTG. Nhưng chính sách này được triển khai thực sự có hiệu quả, thuận tiện khi được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP, và được DIV hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tại Công văn số 397/CV-BHTG. Đặc biệt là trước khi triển khai, DIV đã tổ chức các Hội nghị tập huấn cho hầu hết cán bộ nghiệp vụ của DIV và Hội nghị tập huấn đối với khách hàng là các tổ chức tham gia BHTG để nắm bắt, quán triệt thực hiện. Để hoạt động này mang lại hiệu quả, ngay khi cơ chế này được triển khai áp dụng, DIV đã tổ chức phân quyền quản lý, giám sát chặt chẽ, thống nhất từ Trụ sở chính đến các chi nhánh khu vực trong cả nước. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá thông qua hệ thống giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ cũng như hệ thống báo cáo. Có được kết quả đó là sự thực hiện thống nhất, đồng bộ trong việc tính, nộp phí của các đơn vị, cũng như công tác theo dõi, quản lý của DIV. Đến nay, việc tính, nộp phí của các đơn vị đã ổn định, đi vào nề nếp, đúng quy định của pháp luật về BHTG cũng như hướng dẫn tại Công văn số 397/CV-BHTG8, số đơn vị vi phạm giảm hẳn. Một trong những nguyên nhân mang lại thành công đó là sự phối hợp chặt chẽ, chủ động tìm hiểu và kịp thời khắc phục, chỉnh sửa những tồn tại, sai sót cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện giữa DIV với các đơn vị. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số vấn đề mà DIV cần tiếp tục xem xét, hoàn thiện chính sách phí, đó là:
* Thứ nhất: Cần hướng dẫn rõ đối tượng tiền gửi được bảo hiểm tại điểm c, khoản 2.1,Mục I, Công văn số 397/CV-BHTG là tiền mua giấy tờ có giá. Nên quy định rõ đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là tiền mua giấy tờ có giá ghi danh, vì tại điểm d khoản 2.2 mục này đã quy định tiền mua giấy tờ có giá vô danh là đối tượng không được bảo hiểm.
* Thứ hai: Cần hướng dẫn rõ hơn tiền gửi của hộ gia đình và tiền gửi của đồng chủ sở hữu nếu những người này cũng chính là đối tượng có tiền gửi không được bảo hiểm tại khoản 2.2, Mục I, Công văn số 397/CV-BHTG8. Điều này nhằm giúp các đơn vị thuận tiện trong việc xác định đúng số dư để tính phí, đồng thời làm cơ sở thực hiện và giải quyết các vấn đề liên quan tiếp theo, trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị giải thể và được chi trả tiền bảo hiểm.
* Thứ ba: Việc quy định mốc thời gian riêng để nộp bảng tính phí và nộp phí như hiện tại không thuận tiện cho đơn vị, đặc biệt là những đơn vị ở vùng sâu, vùng xa, vì chỉ thực hiện một nghiệp vụ tính và nộp phí, nhưng phải đi lại hai lần, tốn kém về thời gian và chi phí. Cần thống nhất một mốc thời gian cho nghiệp vụ này.
* Thứ tư: Cần xem xét điều chỉnh quy định nộp phí thừa, thiếu: Nếu giá trị phí nộp thiếu nhỏ mà yêu cầu phải bổ sung ngay cũng không thuận tiện, gây phiền hà, tốn kém cho đơn vị. Nên xem xét quy định nếu số tiền phí thiếu có giá trị lớn phải nộp bổ sung ngay, còn mức tiền nhỏ đơn vị được bù trừ vào kỳ nộp sau liền kề. Tương tự như vậy, khi đơn vị nộp thừa phí: nếu số tiền nộp thừa có giá trị nhỏ thì khấu trừ vào lần nộp sau, nhưng nếu số tiền nộp thừa có giá trị lớn, DIV xem xét thoái thu ngay, đảm bảo sự công bằng, thuận tiện, lợi ích cho đơn vị.
* Thứ năm: Để cơ chế, chính sách thu phí BHTG của Nhà nước được thực hiện đúng, thì bên cạnh sự rõ ràng, minh bạch, cụ thể của văn bản, sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các bên liên quan, cần phải có chế tài xử phạt cụ thể, nghiêm minh đủ để răn đe những đơn vị chưa thực sự quan tâm, chấp hành chính sách thu phí BHTG của Nhà nước. Vấn đề này cũng cần được DIV và các Cấp thẩm quyền xem xét trong dự thảo Luật BHTG.
* Thứ sáu: Sớm áp dụng mức phí theo rủi ro của tổ chức tham gia BHTG. Việc thu phí theo mức độ rủi ro sẽ tạo sự công bằng, khuyến khích các đơn vị quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động. Thu phí BHTG theo mức độ rủi ro cũng phù hợp với quy luật đào thải tự nhiên. Những đơn vị sau thời gian nhất định được đánh giá là hoạt động rủi ro, không mang lại hiệu quả sẽ được giải thể có trật tự, nhường chỗ cho những đơn vị hoạt động lành mạnh, an toàn, hiệu quả.
3. Về “ Chính sách bảo hiểm tiền gửi”:
Ghi nhận, tổng kết, đánh giá những khó khăn, vướng mắc cũng như những bất cập, chưa phù hợp trong chính sách của Nhà nước về BHTG nói chung và phí BHTG nói riêng là cơ sở thực tiễn quý báu giúp DIV hoàn thiện chính sách BHTG vĩ mô phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của nền tài chính nước ta trước yêu cầu phát triển và hội nhập. Đó cũng là nội dung cơ bản mà các cơ quan liên quan cần xem xét đưa vào dự thảo Luật BHTG trong thời gian tới.
Tuy nhiên, để chính sách phí BHTG được thực hiện tốt thì các đơn vị tham gia BHTG cũng cần quan tâm chỉ đạo tốt một số nội dung sau:
+ Thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về BHTG cũng như tính và nộp phí BHTG theo hướng dẫn tại Công văn số 397/CV-BHTG8;
+ Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc hạch toàn tiển gửi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đảm bảo đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm. Đặc biệt là nghiên cứu có biện pháp theo dõi và hạch toán tiền gửi của các đối tượng phải loại trừ khỏi số dư tính phí như: thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban Kiểm soát …;
+ Chú trọng hoàn thiện phần mềm tính phí tại đơn vị, nhất là những đơn vị có mạng lưới chi nhánh rộng, mới;
+ Chú trọng tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ tính, nộp phí BHTG cho cán bộ làm công tác này, đặc biệt là cán bộ tính, nộp phí tại các chi nhánh, phòng giao dịch mới thành lập;
+ Thường xuyên trao đổi thông tin, khó khăn, vướng mắc với DIV để kịp thời tháo gỡ.
Các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định tài chính.
Trên đây là một số mong muốn của tôi về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc và có cơ hội lắng nghe, trao đổi cùng các bạn về những tồn tại của chính sách BHTG để chúng ta có hiểu biết sâu sắc hơn nữa về BHTG và góp sức nhỏ bé của mình vào sự phát triển ngày càng lớn mạnh của DIV.