Ví dụ ở Mỹ, năm 2008, khi thị trường bất động sản đổ vỡ gây ra tình trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, nước Mỹ đang phải chi rất nhiều tiền đề xử lý, nhưng đến nay cũng chưa khắc phục được.
Ở nước ta, NHNN cũng thấy được những dấu hiệu như vậy và đã kịp thời phát hiện, báo cáo để các cấp cùng phối hợp xử lý.
Hiện nay có 3 dạng loại số liệu về nợ xấu. Theo thông lệ quốc tế thì số liệu đánh giá của cơ quan quản lý Nhà nước bao giờ cũng được coi là số liệu có ý nghĩa thực tiễn và chính xác nhất.
Hiện nay, theo số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến ngày 30/9 nợ xấu là 4,93%. Theo đánh giá của NHNN con số này nằm ở khoảng 8,82%. Thực ra nợ xấu đã bắt đầu gia tăng nhanh chóng từ năm 2008. Nếu về tốc độ thì năm 2008 nợ xấu tăng 74%, năm 2009 tăng khoảng 27%, năm 2010 tăng khoảng 41%, đến năm 2011 tăng 64% và từ đầu năm đến nay qua 10 tháng nợ xấu tăng khoảng 66%.
Như vậy, nợ xấu tăng từ năm 2008 trở lại đây là hệ quả từ những năm trước dồn lại. Điều đó chứng tỏ nợ xấu không tăng trong giai đoạn ngắn mà trong cả thời kỳ khi chúng ta gặp phải khó khăn.
Có 5 nhóm nguyên nhân gây nợ xấu: nguyên nhân do các tổ chức tín dụng cho vay vốn; tại chính các doanh nghiệp đi vay vốn; cơ chế chính sách, trong đó có cả cơ chế chính sách vĩ mô và cơ chế chính sách phát triển ngành; môi trường, điều kiện trong và ngoài nước trong từng thời kỳ; công tác thanh tra giám sát, không phải chỉ riêng của ngành Ngân hàng mà cả trong các lĩnh vực khác.
Đối với từng nguyên nhân cần có các giải pháp phù hợp, xin đề cập về nhóm giải pháp của hệ thống ngân hàng:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại có trách nhiệm trước tiên và trách nhiệm lớn nhất. NHNN có hai trách nhiệm: cơ chế chính sách và hoạt động thanh tra giám sát.
Đối với các ngân hàng thương mại, thời gian vừa qua do tăng trưởng tín dụng quá nóng. Thế giới đánh giá chúng ta có 5 loại bong bóng thì bong bóng tăng trưởng tín dụng là một trong 5 bong bóng đó. Tăng trưởng tín dụng quá nóng dẫn đến chất lượng tín dụng không tốt, do đó khi môi trường kinh doanh trở nên xấu sẽ lập tức trở thành nợ xấu. Trách nhiệm lớn nhất là của các tổ chức tín dụng cho vay vốn. Để xử lý, thời gian vừa qua hệ thống ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp quyết liệt:
i) Các tổ chức tín dụng phải tiến hành cơ cấu lại nợ, đánh giá lại thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp để cơ cấu lại nợ với thời hạn lãi suất phù hợp năng lực của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Về vấn đề này, NHNN đã ban hành văn bản 780 từ cuối tháng 4/2012. Đến nay, sau 6 tháng thực hiện kết quả rất ấn tượng, có thể vẫn còn doanh nghiệp chưa được cơ cấu lại nợ, nhưng tính chung trong cả hệ thống con số rất lớn. Ví dụ: tính đến 30/6, tổng số nợ được cơ cấu lại dưới mọi hình thức mới chỉ hơn 36.000 tỷ đồng, nhưng đến 30/9 con số này là khoảng 252 ngàn tỷ đồng. Dư nợ tín dụng trong hệ thống tín dụng là 2 triệu 700 ngàn tỷ, thì 252 ngàn tỷ xấp xỉ khoảng 8%. Chúng ta thấy, nếu không có các giải pháp này, không quyết liệt thì nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tính dụng không phải là 4,93% mà là con số lớn hơn rất nhiều. Giải pháp này đã mang lại tác động rất lớn trong thời gian vừa qua.
ii) Dưới sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ của NHNN, việc trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD được kiểm soát rất tốt trong thời gian qua. Từ đầu năm đến nay, riêng trích lập dự phòng rủi ro mới của các TCTD đã tăng lên khoảng 14 nghìn tỷ đổng, đưa tổng số dư trích lập dự phòng rủi ro còn đến thời điểm hiện nay, kể cả trích lập dự phòng chung và trích lập dự phòng riêng xấp xỉ 75 nghìn tỷ đồng. Các TCTD đã xử lý được khoảng gần 12 nghìn tỷ đồng nợ xấu từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro của chính bản thân họ. Sắp kết thúc năm tài chính, cũng là thời điểm các TCTD rà soát lại tất cả các khoản vay và có các quyết định về việc sử dụng dự phòng để xử lý nợ xấu, NHNN đã có Chỉ thị số 06 chỉ đạo toàn bộ hệ thống năm nay rất quyết liệt trong vấn đề này. TCTD nào chưa trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro thì không được chia cổ tức và giao cho NHNN các cấp giám sát và phê duyệt kế hoạch phân chia cổ tức, kế hoạch tiền lương của các tổ chức để đảm bảo nguồn vốn xử lý nợ xấu.
Theo báo cáo của tổ chức tín dụng thì nợ xấu khoảng 4,93%. Đến nay, con số này, trong số đó có khoảng xấp xỉ hơn 80% có tài sản đảm bảo và trong số tài sản đảm bảo này có tới 57% được đảm bảo bằng bất động sản. Ngoài ra, nợ xấu hiện nay khoảng 4,93% nhưng số mà các tổ chức tín dụng đã trích 75.000 tỷ đồng tương ứng khoảng 2,5 đến 3% nợ xấu. Như vậy, nếu quyết tâm xử lý nợ xấu, ít nhất cũng làm cho nợ xấu chững lại và nếu kết hợp với các giải pháp khác của các nhóm nguyên nhân khác vấn đề nợ xấu cũng có thể giải quyết được nhưng không phải là đơn giản.
Hệ thống ngân hàng phải là đội quân tiên phong trong xử lý nợ xấu, bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ban, ngành của Chính phủ và chính quyền địa phương.
Trong toàn bộ nền kinh tế, dư nợ tín dụng khoảng 2.700.000 tỷ đồng. Trong đó, khoảng 73% dư nợ có tài sản đảm bảo và 27% không có tài sản đảm bảo. Trong số 73% nợ có tài sản đảm bảo có khoảng 66% được đảm bảo bằng bất động sản. Nếu tính tổng thể tất cả các khoản nợ có tài sản đảm bảo bằng bất động sản chiếm tới khoảng 46%. Từ đó, thấy rằng, nếu khai thông được thị trường bất động sản, có sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương các cấp thì có thể giải quyết được một khoản rất lớn.
Chúng tôi đã kiểm điểm năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại và khả năng đối phó của NHNN. Về mặt tài chính, hệ thống ngân hàng có đủ nguồn vốn để làm việc đó, nhưng điều cơ bản hiện nay đối với thị trường bất động sản phải giải quyết khâu tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy, phải có người mua. Trước đây, chủ yếu thị trường bất động sản phục vụ giới kinh doanh đầu cơ làm giá. Bây giờ, để giải quyết vấn đề này phải đưa bất động sản đến đúng người sử dụng. Hiện nay bất động sản giá cao, cơ cấu không hợp lý, người dân cần nhà nhưng không thể mua được. Vậy, phải có sản phẩm với kết cấu xây dựng cũng như kết cấu giá phù hợp túi tiền của người dân, khi đó mới bán được nhà.
Chính vì vây, NHNN đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ Tài chính có các biện pháp như: hỗ trợ tín dụng, xử lý hàng tồn kho, xử lý tồn đọng xây dựng cơ bản (hiện nay khoảng 93.000 tỷ đồng). Chỉ riêng việc tháo gỡ được nút này, 93.000 tỷ đồng đã tương ứng xấp xỉ 3% của nợ xấu.
Dưới sự chỉ đạo nhất quán, quyết liệt của Chính phủ, chúng ta sẽ giải quyết được nợ xấu để góp phần khai thông nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
(Còn tiếp)