Sức mạnh của niềm tin
Không phải ngẫu nhiên, trong cấu trúc hệ thống tài chính thế giới, hầu hết các nước đều hướng mục tiêu ưu tiên vào tăng cường kiểm soát rủi ro, quản chặt những tổ chức nhận tiền gửi để bảo vệ người gửi tiền tốt hơn. Mục tiêu này mang tính nền tảng, kinh điển bởi tiền gửi chính là nền tảng tài chính của các ngân hàng.
Do đó, việc sử dụng công cụ tài chính là bảo hiểm tiền gửi hiệu quả đóng một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ củng cố và duy trì niềm tin của công chúng, mà trên hết, bảo hiểm tiền gửi còn là một mắt xích quan trọng trong hệ thống giám sát an toàn tài chính, trực tiếp đánh giá rủi ro của các tổ chức tín dụng. Từ đó đưa ra những cảnh báo sớm nhằm chấn chỉnh hoạt động, bảo đảm tính lành mạnh của từng tổ chức, góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, đảm bảo an sinh xã hội.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930, Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) là tổ chức bảo hiểm tiền gửi đầu tiên trên thế giới được thành lập. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia cũng lần lượt thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Trên thực tế, thị trường không còn lạ gì với việc cứ vài ngày, FDIC lại đưa ra thông báo, cơ quan này vừa đóng cửa thêm vài ngân hàng (tính đến đầu tháng 6/2010, FDIC đã phải chi 10,6 tỷ USD để xử lý 81 ngân hàng đổ vỡ. Trong khi vào thời điểm này năm ngoái, FDIC mới chỉ đóng cửa 37 ngân hàng trong tổng số ngân hàng phải đóng cửa cả năm 2009 là 140 ngân hàng). Tuy nhiên, điều đáng nói là, không thấy tình trạng người gửi tiền xếp hàng dài trước cửa các ngân hàng để mong nhận lại những đồng tiền tiết kiệm đã tín thác như trước kia. Đối với người dân Mỹ, dường như sự sụp đổ của một ngân hàng đơn thuần chỉ là cái tên ngân hàng đó “biến mất” trên thị trường, không gây xáo trộn lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Các số liệu công bố ngày 3/6/2010 của các cơ quan chức năng Mỹ cho thấy, kinh tế nước này tiếp tục có thêm những tín hiệu phục hồi kể từ cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua.
Mặc dù đã có rất nhiều ngân hàng đổ vỡ trong thời gian qua nhưng tất cả quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng ấy đều đã được bảo hiểm, bản thân các ngân hàng bị đổ vỡ cũng được xử lý một cách êm thấm. Điều này thể hiện vai trò rất quan trọng và hiệu năng hoạt động của FDIC. Cùng với những cải cách tích cực và toàn diện hệ thống giám sát tài chính của Chính phủ Mỹ, FDIC đã thể hiện tốt vai trò là cơ quan tạo lập và khôi phục niềm tin của công chúng vào thị trường tài chính.
Không chỉ riêng ở Mỹ, trong thời kỷ khủng hoảng, Chính phủ nhiều nước khác cũng đã sử dụng công cụ BHTG như một “cứu cánh” để khôi phục niềm tin của công chúng vào thị trường bằng việc gia tăng các biện pháp bảo vệ người gửi tiền và giúp các ngân hàng đổ bể rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự.
So với hệ thống BHTG trên thế giới, hệ thống BHTG ở Việt Nam còn rất mới mẻ. Ra đời năm 1999 với hai nhiệm vụ chính là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần đảm bảo hoạt động an toàn của hệ thống ngân hàng, BHTG Việt Nam đã xử lý thành công hơn 30 quỹ tín dụng làm ăn thua lỗ phá sản, chi trả kịp thời tiền gửi cho người dân, giúp họ nhận lại nhanh chóng, đầy đủ những đồng tiền chắt chiu dành dụm của mình khi tổ chức tín dụng phá sản, giải thể thông qua các nghiệp vụ BHTG. Đây không chỉ là những biện pháp kinh tế thông thường mà còn mang ý nghĩa an sinh xã hội rất lớn, duy trì lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng cũng như Chính phủ Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra cho BHTG Việt Nam
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể thấy, mặc dù đã có sự tăng trưởng về nguồn vốn (vốn pháp định ban đầu do ngân sách Nhà nước cấp là 1000 tỷ đồng, nay đã tăng lên khoảng 6000 tỷ đồng) cũng như vai trò trong việc bảo vệ người gửi tiền, song, so với yêu cầu của thực tiễn hiện nay thì hệ thống BHTG Việt Nam vẫn còn có một số tồn tại.
Theo ước tính, tại Việt Nam hiện khoảng 60-65% tổng lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là của người dân. Đây là những khoản tiền tiết kiệm, dành dụm của người dân để phòng khi bất trắc trong cuộc sống. Vì thế, việc bảo vệ người gửi tiền là một vấn đề mang tính chất xã hội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, BHTG đến nay vẫn còn xa lạ với một bộ phận người dân. Nguyên nhân là do hạn mức chi trả thấp, nếu xảy đổ vỡ mức bồi thường tối đa cũng chỉ là 50 triệu đồng. Điều này cho thấy, chỉ cần có một NHTM cỡ trung bình (quy mô tổng tài sản 15.000 tỉ đồng) bị phá sản thì khả năng bị thiệt hại của người gửi tiền là rất lớn. Rõ ràng, quy định này là không hợp lý, nhất là trong bối thị trường tài chính có nhiều biến động như hiện nay, nhiều quốc gia có xu hướng tăng hạn mức chi trả hoặc chi trả không giới hạn. Điển hình như tại Mỹ, hạn mức chi trả đã tăng từ 100.000 USD lên 250.000 USD, tại châu Âu 25/27 quốc gia cũng tăng hạn mức chi trả. Tại châu Á, Hồng Kông, Đài Loan cũng chuyển sang chi trả không giới hạn. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, Việt Nam là một trong số ít quốc gia Đông Nam Á không tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi. Theo quy định hiện hành, trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, BHTG Việt Nam sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia BHTG tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi). Trong trường hợp khoản tiền gửi lớn hơn mức 50 triệu đồng sẽ được nhận tiếp phần vượt trên 50 triệu đồng trong quá trình thanh lý tổ chức tham gia BHTG bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, đối với mức chi bảo hiểm, nhằm khôi phục niềm tin của công chúng, ứng phó với khủng hoảng, hầu hết các quốc gia đều nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm hoặc cam kết bảo hiểm toàn bộ đối với các khoản tiền gửi của người dân. Theo các chuyên gia, trong điều kiện thị trường tài chính trong nước và quốc tế có nhiều biến động, thì vai trò “gìn giữ niềm tin” của bảo hiểm tiền gửi đối với khách hàng càng trở nên quan trọng. Vì vậy, hạn mức bảo hiểm như hiện nay cần được đánh giá lại cho phù hợp, khi thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, cộng với tốc độ trượt giá và giá trị các khoản tiền gửi của người dân cũng tăng theo mức sống, cũng như tạo lòng tin cho người dân đối với tài khoản tiền gửi của họ và không có phản ứng tiêu cực lên thị trường.
Vai trò chính thống của tổ chức BHTG chưa được phát huy bởi sự thiếu rõ ràng và chuyên nghiệp trong các quy định pháp luật về hoạt động BHTG. Ở Việt Nam, tổ chức BHTG được thành lập với kỳ vọng rất lớn là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng nhưng lại không đủ vốn để hoạt động với tư cách là người BHTG thực sự cho tất cả những ai gửi tiền vào hệ thống tài chính nói chung, kể cả NHTM hay quỹ tín dụng nhân dân.
Về phí bảo hiểm tiền gửi, theo quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006, hàng năm các tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí là 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và nộp theo định kỳ hàng quí, chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của từng quí. Đây là mức phí đồng hạng và không cao trên thế giới – điều đó phần nào cũng phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam, khi mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi đang trong quá trình hoàn thiện.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tế cho thấy, phương pháp thu phí bảo hiểm một cách đồng hạng, về lâu dài sẽ tạo ra sự ỷ lại xét trên góc độ rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm, đồng thời không khuyến khích được tác tổ chức tham gia bảo hiểm hoạt động tốt, hạn chế tối đa rủi ro để được hưởng phí bảo hiểm thấp. Trong giai đoạn hiện nay, phương pháp thu phí thực sự cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng và có sự thay đổi sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Áp dụng theo phương pháp thu phí đồng hạng này, BHTG Việt Nam chỉ quan tâm đến số dư tiền gửi bình quân của tổ chức tham gia bảo hiểm mà không đánh giá tiềm lực tài chính cũng như những nguy cơ có thể xảy ra rủi ro trong quá trình hoạt động của từng tổ chức, trong khi mức độ rủi ro thực tế của từng chủ thể khác nhau là không giống nhau. Do vậy, BHTG nên quy định mức tính phí không đồng hạng đối với các tổ chức tham gia, phụ thuộc vào kết quả của việc xếp loại, đánh giá mức độ rủi ro của mỗi tổ chức tham gia BHTG theo từng năm. Quy định như vậy sẽ tạo ra sự công bằng giữa các chủ thể tham gia BHTG và phản ánh đúng bản chất, vai trò của bảo hiểm, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các chủ thể tham gia bảo hiểm.
Việc tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro của ngân hàng được coi là bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, có lợi cho người gửi tiền, hệ thống ngân hàng và tổ chức BHTG nhưng đến nay, việc triển khai phương pháp này cũng còn nhiều vướng mắc. Điều này thể hiện ở chỗ, trong khi các nước đang áp dụng phí BHTG dựa trên mức độ rủi ro của ngân hàng thì Việt Nam vẫn áp dụng chính sách phí BHTG đồng hạng. Cách tính này tuy tạo thuận lợi và dễ dàng khi triển khai, nhưng không tạo được động lực thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và đảm bảo an toàn giữa các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, việc áp dụng phí trên cơ sở mức độ rủi ro lại mang lại nhiều lợi ích thiết thực, đúng với định hướng phát triển kinh tế thị trường. Từ thực tiễn này cho thấy, rõ ràng là những người gửi tiền ở Việt Nam đang chịu thiệt thòi và rất cần được bảo vệ tốt hơn.
Làm gì để bảo vệ người gửi tiền tốt hơn?
BHTG Việt Nam đã có nhiều cố gắng và đạt được thành tựu bước đầu tương đối khả quan, song với diễn biến hiện tại và triển vọng phát triển của hệ thống ngân hàng thì BHTG Việt Nam cũng như hệ thống giám sát tài chính - ngân hàng đang đứng trước nhiều thách thức đối với việc bảo đảm an toàn hệ thống tài chính trong điều kiện mở cửa thị trường theo cam kết gia nhập WTO. Để tổ chức BHTG Việt Nam thực hiện tốt vai trò bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn và lành mạnh cho hoạt động ngân hàng, các cơ quan chức năng cần có sự điều chỉnh chính sách kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Trước hết, cần khẩn trương ban hành Luật BHTG để nâng cao năng lực pháp lý cho tổ chức này. Luật BHTG là đạo luật rất quan trọng, việc soạn thảo nó nên có một tầm nhìn xa về sự phát triển rất nhanh của các định chế tài chính; đồng thời phải là một đạo luật phản ánh thực chất nhu cầu của phát triển.
Nhà nước cũng cần xây dựng quy chế về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại những ngân hàng có vấn đề và tổ chức tín dụng yếu kém, nhằm bảo đảm an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng để từ đó bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền một cách tốt nhất, nâng cao niềm tin của công chúng cũng như đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.
Thứ hai, tổ chức BHTG cần phải có một tiềm lực tài chính đủ lớn để có thể gánh vác, xử lý khi rủi ro xảy ra. Cụ thể: cần nâng mức phí tham gia BHTG của các tổ chức và áp dụng trên mức độ rủi ro của ngân hàng để thay thế cho chính sách phí BHTG đồng hạng như hiện nay.
Thứ ba, nâng cao tính độc lập của hệ thống BHTG. Mục đích của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Do vậy, khi tổ chức BHTG được độc lập thì hiệu quả của chính sách BHTG cũng sẽ được củng cố và nâng lên. Khi hệ thống BHTG được thiết kế cẩn trọng mới góp phần xây dựng lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, từ đó, hạn chế ảnh hưởng xấu gây ra bởi những ngân hàng gặp khó khăn.
Thứ tư, nguồn nhân lực của tổ chức BHTG cũng phải đủ mạnh để vừa làm công tác giám sát, vừa xử lý những hậu quả có thể xẩy ra.
Thứ năm, cần tạo lập cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa BHTG Việt Nam với Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác. Cần tăng cường chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm, hợp tác với nhau để đảm bảo cho công tác giám sát được nhìn từ nhiều góc độ, khía cạnh và thấy được các rủi ro rõ hơn, kịp thời hơn.