Quá trình hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi cần làm rõ phương pháp xác định hạn mức bảo hiểm tiền gửi, làm cơ sở cho các cơ quan quản lý tham mưu cho Thủ tướng xây dựng và ban hành hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp với tình hình thực tế và bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật. Việc xây dựng phương pháp xác định hạn mức bảo hiểm tiền gửi là rất cần thiết nhằm thể hiện tính minh bạch và ổn định của chính sách. Người gửi tiền cũng cần biết sẽ được pháp luật bảo vệ quyền lợi như thế nào nếu tổ chức tín dụng gặp rủi ro. Thiết thực nhất là họ cần biết sẽ được nhận bao nhiêu tiền từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức tín dụng không còn khả năng thanh toán khoản tiền gửi của họ. Qua đó sẽ góp phần nâng cao lòng tin của người gửi tiền vào sự phát triển ổn định của hệ thống tài chính, tín dụng, tiếp tục gửi tiền vào các tổ chức tín dụng, góp phần vào tăng trưởng của lĩnh vực này.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi quốc tế cũng đã khuyến nghị một số nguyên tắc: mức bảo hiểm nên giới hạn nhưng phải đáng tin cậy và có thể nhanh chóng được xác định; mức bảo hiểm này cần phải đạt được yêu cầu là bảo hiểm toàn bộ cho phần lớn người gửi tiền nhằm đáp ứng các mục tiêu của chính sách công và nhất quán với đặc điểm thiết kế khác của hệ thống bảo hiểm tiền gửi; hạn mức phải đủ cao để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng và hạn mức đủ thấp để tránh rủi ro đạo đức và kinh doanh. Theo các nguyên tắc này, hạn mức bảo hiểm tiền gửi được xác định dựa trên các yếu tố kinh tế vĩ mô và thực trạng của họat động tín dụng và bảo hiểm tiền gửi như: GDP bình quân đầu người; mức độ rủi ro của hệ thống tín dụng; lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; tỷ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ trong số những người gửi tiền được bảo hiểm; số tiền được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm; tỷ lệ hạn mức trên GDP bình quân đầu người.
Hạn mức bảo hiểm tiền gửi sẽ được điều chỉnh tùy tình hình thực tế khi có một số yếu tố thay đổi như: lạm phát, cơ cấu và quy mô tiền gửi, khi xuất hiện các công cụ tài chính mới. Tuy nhiên, hạn mức sau điều chỉnh phải bảo đảm duy trì niềm tin của người gửi tiền và giảm thiểu rủi ro đạo đức. Ví dụ như theo quy định của Lụât Bảo hiểm tiền gửi của Indonesia thì hạn mức sẽ được điều chỉnh khi một lượng vốn lớn bị rút khỏi ngân hàng; có sự thay đổi lớn của tỷ lệ lạm phát trong một vài năm hoặc tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số người gửi tiền tại tất cả các ngân hàng giảm xuống dưới 90%.
Còn theo kinh nghiệm quốc tế ở các nước đã thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi từ lâu như Hàn Quốc, Canada, Mỹ,… thì việc xác định hạn mức bảo hiểm tiền gửi tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế. Trong giai đoạn kinh tế phát triển bình thường thì tỷ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ trên số người gửi tiền được bảo hiểm là trên 80%; tỷ lệ số tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm khoảng 20-30%, còn tỷ lệ hạn mức bảo hiểm tiền gửi trên GDP bình quân đầu người từ 2,5 đến 5 lần. Trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng thì cần phải tăng cường phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài chính, tăng cường theo dõi thị trường tài chính và phát hiện sớm dấu hiệu đổ vỡ nhằm phòng ngừa khủng hoảng hệ thống, nâng cao nhận thức của công chúng về các biện pháp bảo vệ tiền gửi và tránh tình trạng rút tiền hàng loạt, nâng cao vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Ở Việt Nam, hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ năm 2005 đến nay không thay đổi, vẫn ở mức 50 triệu đồng cho mỗi người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Nghị định 109/2005. Mức này tương đương gần 5 lần GDP bình quân đầu người và có thể chi trả cho 90% người gửi tiền vào thời điểm năm 2005. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng đến hạn mức bảo hiểm tiền gửi đang thay đổi trong những năm gần đây, đặc biệt là, CPI liên tục tăng cao trong những năm qua, với mức lạm phát bình quân trong 6 năm (2005-2011) khoảng 18%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2011 là 1300 đôla Mỹ, gần gấp đôi so với mức 700 đôla Mỹ của năm 2005. Vì vậy, tỷ lệ hạn mức trả tiền bảo hiểm trên GDP bình quân ngày càng giảm, đến năm 2011 chỉ còn 1,73 lần, tỷ lệ hạn mức này của Việt Nam thấp so với thế giới. Tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số tiền gửi cũng chỉ khoảng 15% ( tỷ lệ này trung bình ở các nước khoảng 40%). Mới chỉ so sánh về chỉ số hạn mức bảo hiểm tiền gửi trên GDP bình quân đầu người đã cho thấy hạn mức trả tiền bảo hiểm 50 triệu đồng đã không còn phù hợp với thực tế tại thời điểm hiện nay.
Việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm còn dựa vào các yếu tố kinh tế vĩ mô, niềm tin của người gửi tiền vào hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh kinh tế đang khó khăn, thiếu vốn như hiện nay, thì cần có sự điều chỉnh về hạn mức cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, khuyến khích người gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng. Cũng có ý kiến cho rằng, cần xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm một cách linh hoạt, để đáp ứng nhanh với tình hình thực tế và nguyện vọng của người gửi tiền. Tuy nhiên, việc quy định “cứng” về một hạn mức bảo hiểm tiền gửi trong từng thời kỳ như Luật Bảo hiểm tiền gửi là cơ chế khá rõ ràng, công khai khẳng định cam kết bảo vệ người gửi tiền, đồng thời hạn chế rủi ro đạo đức, tránh bảo lãnh “ngầm” và tạo thuận lợi trong việc huy động vốn của các tổ chức tín dụng.
Hạn mức trả tiền bảo hiểm thể hiện cam kết của Chính phủ thông qua tổ chức bảo hiểm tiền gửi bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy, cần hết sức cân nhắc khi đưa ra quyết định về hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với tình hình thực tế và định hướng chính sách. Tại các quốc gia mà hệ thống ngân hàng có tiềm ẩn rủi ro cao, hạn mức này cần duy trì ở mức cao tương ứng nhằm bảo đảm duy trì niềm tin của người gửi tiền. Việc thay đổi hạn mức bảo hiểm là điều chỉnh chính sách cần thiết trong tổng thể giải pháp chính sách ứng phó với những diễn biến xấu của hệ thống tài chính. Trong khủng hoảng, niềm tin của người dân nói chung và người gửi tiền nói riêng có xu hướng sụt giảm, vì vậy, tăng hạn mức hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn sẽ giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, tạo tâm lý yên tâm, qua đó hạn chế tình trạng rút tiền hàng loạt khi có sự cố về ngân hàng.
Theo thống kê của tổ chức bảo hiểm quốc tế, trong thời gian có khủng hoảng kinh tế, có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện một số giải pháp mới trong chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm. Trong đó, có 19 nước áp dụng hình thức bảo lãnh toàn bộ đối với khách hàng gửi tiền, 23 nước tăng hạn mức BHTG không xác định thời hạn kết thúc (chính sách hạn mức mới dài hạn), và 6 nước tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tạm thời. Trong khủng hoảng, các quốc gia tại Châu Á duy trì mức độ bảo vệ cao từ 5 đến 80 lần GDP bình quân đầu người. Ở Đông Nam Á, hầu hết các quốc gia đã nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Trong số các quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi chính thức và công khai tại Đông Nam Á, chỉ có Lào và Việt Nam không tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Sau thời kỳ khủng hoảng, các quốc gia thôi áp dụng cơ chế bảo lãnh toàn bộ và quay về cơ chế bảo hiểm có hạn mức. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều duy trì hạn mức cao hơn giai đoạn trước khủng hoảng tài chính. Thậm chí trong những trường hợp bất thường, hạn mức có thể được điều chỉnh lên mức rất cao hoặc bảo đảm chi trả không giới hạn tạm thời và rút ngắn thời gian chi trả để trấn an lòng tin của người gửi tiền.
Trên cơ sở phân tích nêu trên về các yếu tố liên quan để xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm và tình hình thực tiễn của Việt Nam, để bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn và ổn định của hạn mức trả tiền bảo hiểm trong khoảng 5 năm tới nên tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm tối đa lên mức khoảng 4-5 lần GDP bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người năm 2011 là 1.300đô la, dự báo của Bộ Kế hoạch và đầu tư đến năm 2015 khoảng 2.100 đôla). Theo đó, hạn mức bảo hiểm được xác định ở thời điểm hiện nay và cho khoảng 5 năm tới, theo chúng tôi nên ở mức khoảng 150 - 200 triệu đồng/mỗi người gửi tiền.
Tuy nhiên, để bảo đảm hạn mức trả tiền bảo hiểm này có tính khả thi thì còn phải dựa vào các yếu tố liên quan khác như quy định về phí bảo hiểm tiền gửi mà các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải trả và khả năng cân đối với các nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Trong đó, quan trọng nhất là vốn điều lệ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi do ngân sách nhà nước cấp, nguồn vốn được tích luỹ thông qua nguồn phí bảo hiểm tiền gửi để bảo đảm tổ chức bảo hiểm tiền gửi có nguồn lực tài chính đủ lớn đáp ứng yêu cầu chi trả và duy trì niềm tin cho người gửi tiền.
Phương pháp xác định hạn mức bảo hiểm tiền gửi
Tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật bảo hiểm tiền gửi. Luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Luật bảo hiểm tiền gửi đã quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền bảo hiểm tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi của một người được bảo hiểm tiền gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Đồng thời, Luật giao cho Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ.