Đối tượng được BHTG
Có ý kiến đề nghị mở rộng đối tượng được BHTG đối với các loại hình doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội và các khoản quỹ dành cho hoạt động nhân đạo, từ thiện. Tuy nhiên, Quốc hội quyết định chỉ BHTG của người gửi tiền là cá nhân như trong dự thảo Luật trình Quốc hội.
Mô hình tổ chức BHTG
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, BHTG Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ thành lập từ năm 1999 nhưng chưa giao cụ thể cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 (Khoản 14 Điều 4), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được trao chức năng thực hiện quản lý nhà nước về BHTG theo quy định của pháp luật về BHTG.
Việc quy định Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước là phù hợp để bảo đảm sự độc lập tương đối của tổ chức BHTG nhằm thực hiện chính sách tài chính công.
Vì vậy, Quốc hội đã quyết định mô hình tổ chức BHTG như sau:
“Điều 29. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ.
2. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.”
Tiền gửi được bảo hiểm
Có ý kiến đề nghị xem xét, bổ sung BHTG đối với vàng và ngoại tệ. Bên cạnh đó, cần áp dụng mức phí BHTG cao hơn so với mức phí BHTG đối với tiền đồng Việt Nam.
Tuy nhiên, Quốc hội đã biểu quyết phương án chỉ bảo hiểm đối với các khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam như quy định như trong dự thảo Luật trình ra Quốc hội.
Phí bảo hiểm tiền gửi
Đa số ý kiến thống nhất không quy định mức phí cụ thể trong dự thảo Luật mà giao cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nhưng đề nghị bổ sung, căn cứ vào khung phí này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức phí cụ thể cho các tổ chức tham gia BHTG dựa trên đánh giá, phân loại các TCTD. Tổ chức nào có rủi ro cao thì phải nộp phí BHTG cao và ngược lại.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Điều 20 Luật BHTG được thể hiện:
“Điều 20. Phí bảo hiểm tiền gửi
1. Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước.
2. Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.
3. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
4. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp định kỳ hàng quý trong năm tài chính. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý kế tiếp.
5. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.”
Hạn mức trả tiền bảo hiểm
Đa số ý kiến thống nhất giao cho Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ để bảo đảm sự linh hoạt trong công tác điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch và tạo lòng tin cho người dân, về lâu dài cần quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm cụ thể ngay trong luật. Do đó, Điều 24 Luật BHTG quy định:
“Điều 24. Hạn mức trả tiền bảo hiểm
1. Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
2. Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.”
Luật BHTG sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013.