Tình hình xử lý nợ xấu và những vướng mắc chính
Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến thời điểm 01/2017, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 616,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 349,7 nghìn tỷ đồng (56,9% tổng số nợ xấu được xử lý), còn lại là bán nợ cho các tổ chức, cá nhân khác (chiếm 43,3%). Theo đó, nợ xấu đã được kiềm chế, đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 02/2017 về mức 2,56% tổng dư nợ tín dụng. Kết quả xử lý nợ xấu của TCTD qua VAMC lũy kế từ năm 2013 đến 30/3/2017, tổng số tiền thu hồi nợ đạt 53.236 tỷ đồng. Trong tổng số nợ xấu được xử lý, hình thức bán, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ ở mức khá thấp, đạt 17,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,85 tổng nợ xấu được xử lý.
Việc xử lý nợ xấu đã có những bước tiến tích cực, tuy nhiên vẫn còn tồn đọng một lượng lớn nợ xấu chưa được giải quyết. Trong khi đó, nếu thiếu các giải pháp xử lý thích đáng đối với nợ xấu thì phí tổn phải trả là vô cùng lớn, không chỉ đối với bản thân TCTD hay hệ thống ngân hàng, mà còn là tác nhân dẫn đến tăng trưởng không bền vững, mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Tại Hội thảo “Xử lý nợ xấu – Từ góc độ chính sách và pháp luật” được NHNN phối hợp với Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức chiều 23/5/2017 vừa qua, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh đã tổng kết ba điểm mấu chốt dẫn đến tình trạng nợ xấu tồn đọng, chậm được xử lý là: cơ chế pháp lý chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của các TCTD, các quy định của pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo còn nhiều vướng mắc, bất cập, và thời gian xử lý nợ, tài sản đảm bảo qua tòa án thường kéo dài, trong khi pháp luật về tố tụng dân sự chưa cho phép áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của bên bảo đảm và quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.
Cụ thể, trong quá trình mua nợ, VAMC xử lý nợ đã mua, khách hàng vay đồng ý bổ sung thêm tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, nhưng theo các quy định tại Điều 174, 175, 176 Luật Đất đai 2013, VAMC không được nhận thếp chấp quyền sử dụng đất, và khi bán lại khoản nợ xấu cho các cá nhân, tổ chức thì các cá nhân, tổ chức này cũng không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Do vậy, VAMC cũng như TCTD khó có thể bán những khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cho cá nhân, tổ chức kông phải là TCTD.
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ quyền thu giữ tài sản đảm bảo của bên nhận tài sản đảm bảo, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác, dẫn tới hạn chế quyền xử lý đảm bảo của TCTD và VAMC. Đồng thời, thời gian xử lý nợ, tài sản đảm bảo qua tòa án cũng không hiệu quả, thực tế có thể kéo dài khoảng 2 năm, chi phí chiếm khoảng 29% giá trị đòi nợ, chỉ số chất lượng tố tụng tư pháp của Việt Nam là thấp. Cơ chế pháp luật về tố tụng dân sự hiện tại chưa cho phép áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản đảm bảo của bên bảo đảm và quyền xử lý tài sản đảm bảo của bên nhận đảm bảo.
Có thể thấy, các vướng mắc này chủ yếu xoay quanh cơ chế, chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập, đặc biệt là về xử lý tài sản đảm bảo.
Theo TS. Võ Trí Thành, muốn xử lý nợ xấu hiệu quả cần phải có cam kết chính trị mạnh mẽ, khuôn khổ pháp lý thích hợp, phân bổ nguồn lực và chú trọng trao quyền cho cơ quan thực thi. Bên cạnh đó cũng cần chú ý tính minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm tạo đồng thuận trong xã hội cao bởi nợ xấu liên quan đến rất nhiều vấn đề trách nhiệm gây ra nợ xấu và những phí tổn, đụng chạm tới lợi ích của nhiều bên liên quan trong xã hội.
TS. Lê Xuân Nghĩa cũng cho rằng các cơ quan nhà nước cần có quyết tâm chính trị đủ mạnh để vượt qua tư duy làm luật kiểu cũ, xây dựng nhanh một hành lang pháp lý riêng, làm nền tảng cho các TCTD thực hiện thành công tiến trình xử lý nợ xấu, bởi đây là giải pháp duy nhất để đảm bảo cho việc ổn định vững chắc toàn bộ khu vực tài chính và góp phần quyết định vào việc ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong những năm tới.
Quốc hội sẽ xem xét ban hành Nghị quyết xử lý nợ xấu
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc, xử lý triệt để nợ xấu, Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh cho biết, Chính phủ đã giao NHNN chủ trì xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu của các TCTD để Chính phủ trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV.
Theo quy định hiện hành, Nghị quyết của Quốc hội có tính chất tương đương một văn bản luật để đưa ra các quy định khác với quy định trong Luật đã được Quốc hội thông qua, hoặc đưa ra những quy định mới mà Luật hiện hành chưa đề cập. Việc Quốc hội ban hành Nghị quyết sẽ thực hiện thí điểm một số điều sửa đổi Luật để sớm đưa chính sách vào cuộc sống, xử lý các vấn đề cấp bách, đồng thời đánh giá, xem xét có phù hợp với quy luật của nền kinh tế hay không trong thời điểm chưa đủ điều kiện sửa toàn bộ các Luật có liên quan.
Trao đổi tại Hội thảo “Xử lý nợ xấu – Từ góc độ chính sách và pháp luật”, TS. Nguyễn Đức Kiên – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã nêu ra 04 điểm mới của Nghị quyết so với quy định hiện hành:
Thứ nhất, Nghị quyết có thời điểm bắt đầu cũng như thời điểm kết thúc. Nghị quyết dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/07/2017 và có thể kết thúc vào ngày 01/07/2022 tùy theo Quốc hội quyết định.
Thứ hai, Nghị quyết không phân biệt nợ xấu của NHTM nhà nước, NHTM cổ phần hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mà gọi chung là nợ xấu của các TCTD đang hoạt động trên đất nước Việt Nam.
Thứ ba, nợ xấu được Nghị quyết áp dụng xử lý được giới hạn theo thời gian. Nghị quyết dự kiến chỉ xử lý nợ xấu kết toán đến ngày 31/12/2016, không áp dụng để xử lý tất cả các khoản nợ xấu phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của TCTD sau ngày 01/01/2017 và không xóa trách nhiệm đối với các sai phạm của TCTD tính đến thời điểm 31/12/2016.
Thứ tư, Nghị quyết hệ thống hóa quy trình xử lý tài sản đảm bảo của nợ xấu và quy định giải quyết tranh chấp qua tòa án theo quy trình rút gọn. Hiện tại, các luật liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo quy định việc xử lý tài sản được thực hiện theo nhiều bước, nhưng Nghị quyết quy định rút gọn thành 2 bước. Cụ thể, đối với các khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo và đã đăng ký giao dịch bảo đảm, trước hết thực hiện theo thỏa thuận giữa TCTD và người vay nợ. Khi có tranh chấp, TCTD có quyền kiện ra tòa; theo tinh thần của Nghị quyết, tòa sẽ xử theo quy trình rút gọn, đảm bảo thời gian giải quyết nhanh và có hiệu lực ngay. Dự thảo Nghị quyết cũng quy định về trình tự rút gọn đối với cơ quan thi hành án dân sự để đảm bảo việc thu giữ tài sản đảm bảo đã được đăng ký của người vay cố tình chây ỳ không thực hiện các cam kết hợp đồng dân sự của mình được xử lý nhanh chóng, đồng thời không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của nền kinh tế.
Có thể thấy, Dự thảo Nghị quyết đã hướng tới xử lý những nút thắt tồn tại trong cơ chế pháp lý liên quan tới xử lý nợ xấu. Một điểm đáng chú ý khác là Nghị quyết trao quyền cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua, bán nợ xấu được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo giá trị thị trường theo quy định của pháp luật, có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị ghi sổ của khoản nợ. Đây là điều mà VAMC và các TCTD đã nhiều lần đề xuất nhằm tạo cơ sở cho một thị trường mua bán nợ thực sự vận hành theo cơ chế thị trường. Tất nhiên, để việc mua, bán nợ xấu và tài sản đảm bảo được thực hiện hiệu quả, không gây thất thoát ngân sách nhà nước, cần gắn với một thị trường công khai, minh bạch, đồng thời tiếp tục xử lý các tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm đối với nợ xấu hiện nay.
Nhiều chuyên gia pháp lý và lãnh đạo các ngân hàng đã lên tiếng ủng hộ việc Quốc hội xem xét ban hành Nghị quyết về xử lý nợ xấu. Luật sư Trương Thanh Đức – Chủ tịch HĐTV Công ty luật BASICO phân tích, các quy định về thu giữ, xử lý tài sản đảm bảo được nêu trong dự thảo Nghị quyết là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp, Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản có liên quan. Bên cạnh đó, cũng còn một số ý kiến đề nghị không giới hạn nợ xấu theo thời gian với mốc từ 31/12/2016 trở về trước, bởi nợ xấu là một phần rủi ro trong hoạt động tín dụng mà TCTD phải gánh chịu, luôn luôn tồn tại trong hoạt động ngân hàng.
Dự thảo Nghị quyết sẽ được Quốc hội thảo luận và được kỳ vọng sẽ ban hành ngay trong kỳ họp thứ ba nhằm thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu hiệu quả, triệt để. Việc xử lý rốt ráo “cục máu đông” của nền kinh tế sẽ góp phần giảm mặt bằng lãi suất, mở rộng tín dụng, gia tăng sự ổn định, bền vững của hệ thống ngân hàng nói riêng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung.