Các rủi ro đạo đức thường gặp do nguyên nhân từ phía ngân hàng
Thứ nhất: Rủi ro đạo đức phát sinh từ chính người quản lý và cán bộ làm việc trong ngân hàng gây ra: Chẳng hạn khi nhà quản lý hay cán bộ, nhân viên của ngân hàng đã có quan hệ lợi ích với khách hàng vay vốn, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện để được vay vốn, nhưng vì lợi ích của cá nhân, nhà quản lý hay nhóm cán bộ, nhân viên của ngân hàng đã bằng mọi cách, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của mình để khách hàng đó được vay vốn của ngân hàng. Hậu quả là khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, thậm chí có thể bị chiếm đoạt và không trả được ngân hàng.
Thứ hai: Ngân hàng chạy theo mục tiêu tăng trưởng tín dụng để nâng cao lợi nhuận dẫn đến nới lỏng quá mức các chính sách đầu tư và tín dụng nhằm đáp ứng và nắm bắt cơ hội thị trường; bỏ qua các nguyên tắc cơ bản trong việc thẩm định, giám sát cũng như các điều kiện ràng buộc đối với khách hàng trước và trong khi sử dụng vốn vay; đầu tư, cho vay quá mạo hiểm; cấp tín dụng quá tập trung vào một khách hàng; thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và khoa học dẫn đến khách hàng sử dụng vốn không hiệu và không trả nợ được ngân hàng.
Thứ ba: Ngân hàng mở rộng nhanh chóng việc đầu tư vào nhiều sản phẩm, dịch vụ mới có tính phức tạp và đòi hỏi kỹ thuật cao, nhưng trình độ quản lý của ban lãnh đạo và nhân viên cũng như công nghệ ngân hàng chưa đáp ứng kịp thời và đồng bộ dẫn đến khoản đầu tư này gặp rủi ro, mức độ rủi ro và nguyên nhân của rủi ro gắn với sản phẩm, dịch vụ đó.
Thứ tư: Do cán bộ, nhân viên ngân hàng thông đồng với khách hàng mà biểu hiện cụ thể nhất là nhận “lót tay” của khách hàng vay vốn để cấp tín dụng cho các dự án nhiều rủi ro hoặc nhân viên ngân hàng thiếu trách nhiệm, không nắm bắt và tìm hiểu thông tin liên quan đến khoản vay một cách chính xác; thiếu thận trọng trong phân tích diễn biến thị trường liên quan tới khách hàng kinh doanh dẫn đến việc ngân hàng quyết định cho vay những dự án không thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Thứ năm: Do chính cán bộ, nhân viên ngân hàng chiếm đoạt tiền của ngân hàng hàng bằng các thủ đoạn tinh vi như: lập hồ sơ khống, giả mạo tên người khác để lập hồ sơ vay vốn, thông đồng với khách hàng để vay ké, thậm chí còn rút quỹ của ngân hàng để chiếm đoạt…những tiêu cực, rủi ro này xảy ra thường xuyên trong thời gian gần đây ở một số ngân hàng như ở Công ty tài chính II, NHN0 & PTNT Việt Nam; NHCT Việt nam chi nhánh Nhà Bè (vụ Huỳnh Thị Huyền Như); ở các Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) như ở QTDND Trần Cao, tỉnh Hưng Yên; QTDND Chiềng Sung, tỉnh Sơn La; QTDND Nam Hải, tỉnh Thái Bình… đã được cơ quan chức năng kiểm tra, phát hiện và xử lý.
Nguyên nhân phát sinh rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng
Có rất nhiều nguyên nhân phát sinh rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng song tựu trung lại ở một số nguyên nhân chính sau:
* Do việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ không đúng quy định: Đây có thể được cho là nguyên nhân chính dẫn đến phát sinh rủi ro đạo đức trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Khi tuyển dụng hoặc khi bố trí, đề bạt cán bộ nhà quản lý đã bỏ qua các tiêu chí cơ bản trong việc nhận xét, đánh giá năng lực cũng như phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ từ đó dẫn đến sự tha hóa phát sinh lòng tham của cán bộ, gây thiệt hại đến lợi ích chung của ngân hàng.
* Do công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và của chính ngân hàng bị buông lỏng hoặc không hiệu quả. Đây cũng có thể nói là nguyên nhân quan trọng dẫn đến phát sinh rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng. Thực tế cho thấy hầu hết các tổ chức tín dụng (TCTD) đổ vỡ do nguyên nhân rủi ro đạo đức từ chính TCTD là công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của chính TCTD đó và các cơ quan chức năng bị buông lỏng hoặc không hiệu quả. Tại Công ty tài chính II, NHNo & PTNT Việt Nam hay NHCT Việt Nam Chi nhánh TP.HCM việc vi phạm của cán bộ nhân viên các đơn vị này xảy ra nhiều năm nhưng hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ của ngân hàng kiểm tra không phát hiện được; tại QTDND Trần Cao, tỉnh Hưng Yên cán bộ lãnh đạo và nhân viên của QTD lập Hồ sơ khống, đứng tên người khác để vay tiền, vay hộ, vay ké với số tiền là 27 tỷ 030 triệu đồng/ 34 tỷ đồng dư nợ nhưng Thanh tra Ngân hàng Nhà nước không kiểm tra phát hiện được. Hay như tại một QTDND thuộc địa bàn tỉnh Sơn La để tồn quỹ lớn trong thời gian dài gây mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tạo kẽ hở để Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc QTD chiếm đoạt hơn 10 tỷ đồng bằng thủ đoạn rút tiền trực tiếp từ quỹ của QTD nhưng không được kiểm tra xử lý...
* Do thiếu sự kiểm tra,giám sát của cổ đông và người gửi tiền. Người gửi tiền thường tin tưởng vào mức độ tín nhiệm của TCTD và khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi của các TCTD; ngoài ra họ còn tin tưởng vào việc TCTD đó đã tham gia bảo hiểm tiền gửi nên nếu xảy ra đổ vỡ thì tiền gửi của họ sẽ được tổ chức BHTG chi trả. Do vậy, họ không quan tâm xem TCTD đó hoạt động như thế nào.
Hậu quả của rủi ro đạo đức đối với ngân hàng
Khi rủi ro đạo đức xảy ra đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay trong khi ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động của người gửi tiền, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến. Nếu một khoản vay bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đó, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ đổ vỡ.
Nếu rủi ro đạo đức xảy ra do cán bộ ngân hàng chiếm đoạt tiền của chính ngân hàng thì năng lực tài chính của ngân hàng giảm sút và nếu với số lượng lớn thì ngân hàng đó sẽ mất khả năng chi trả và dẫn đến đổ vỡ.
Như vậy, dù bất cứ nguyên nhân gì nếu xảy ra đạo đức trong hoạt động của ngân hàng cũng sẽ gây ra hậu quả vô cùng lớn đó là thất thoát tài sản của ngân hàng và của người gửi tiền và nếu với số lượng lớn thì nguy cơ đổ vỡ ngân hàng, làm mất an toàn hệ thống là điều khó tránh khỏi.
Rủi ro đạo đức và vấn đề trục lợi chính sách BHTG
Chính sách BHTG ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng. Khi TCTD đã tham gia BHTG bị mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền, khi đó tổ chức BHTG sẽ đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền theo quy định của Luật BHTG. Chính sách BHTG và sự ra đời của BHTGVN 15 năm vừa qua đã thể hiện sự ưu việt của nó. Không chỉ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, chính sách BHTG còn ngăn ngừa và hạn chế sự cố rút tiền hàng loạt khi có sự cố, biến động hoặc khủng hoảng, qua đó góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, nếu không có biện pháp ngăn ngừa hiệu quả thì đây cũng là một yếu tố làm gia tăng rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng thể hiện trên một số khía cạnh sau:
- Do xác định TCTD đã tham gia BHTG, tiền người của người gửi tiền được bảo hiểm nên người quản lý, cán bộ và nhân nhiên TCTD bỏ qua các quy định về an toàn, chấp nhận mạo hiểm trong kinh doanh để đạt được mục tiêu lợi nhuận cao hoặc mang lại lợi ích cho cá nhân, thậm chí vi phạm pháp luật để chiểm đoạt tiền của TCTD. Họ nghĩ rằng nếu chẳng may TCTD có bị đổ vỡ thì đã có tổ chức BHTG đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Đây thực chất là lợi dụng chính sách BHTG để trục lợi nhằm mang lại lợi ích cho một số cá nhân hoặc một nhóm người.
- Việc trục lợi chính sách BHTG còn thể hiện trên một số yếu tố như gian lận, thông đồng với tổ chức và cá nhân để hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ biến những khoản tiền không thuộc đối tượng BHTG thành khoản tiền gửi thuộc đối tượng BHTG để tổ chức BHTG chi trả nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Một số kiến nghi, đề xuất
Để ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng cũng như lợi dụng chính sách BHTG để trục lợi chúng tôi có một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Một là: Nâng cao công tác quản trị, rủi ro, áp dụng các chuẩn mực quốc tế về chỉ tiêu an toàn trong công tác quản trị rủi ro đối với hoạt động ngân hàng để không tạo kẽ hở cho phát sinh rủi ro đạo đức, cùng với đó là công tác bố trí và tuyển dụng nhân sự phải đảm bảo phù hợp đúng tiêu chuẩn, đúng quy định của tổ chức, của Nhà nước. Suy cho cùng mối chấu vẫn là vấn đề con người nếu các quy định về quản trị rủi ro dù có ưu việt đến đâu nhưng việc bố trí, sắp xếp và giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ, nhân viên và người quản lý TCTD không tốt thì rủi ro đạo đức vẫn phát sinh. Thực tế xảy ra ở một số ngân hàng và QTDND thời gian vừa qua đã chứng minh điều đó.
Hai là: Cần xây dựng cơ chế hạn mức chi trả bảo hiểm phù hợp đảm bảo không quá cao để cho người gửi tiền, bộ máy lãnh đạo cấp cao các ngân hàng không ỷ lại vào tiền chi trả bảo hiểm mà “quên đi” nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của TCTD , nhưng cũng không quá thấp làm giảm tính hiệu quả tích cực của chính sách BHTG.
Ba là: Thực hiện cơ chế tính phí BHTG trên cơ sở rủi ro, nhằm tạo ra áp lực đối với các TCTD trong việc không ngừng nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động để thu hút tiền gửi của người gửi tiền vào tổ chức mình. Theo đó, TCTD bị áp dụng mức phí cao đồng nghĩa với rủi ro cao thì người gửi tiền sẽ không gửi tiền vào những TCTD này mà họ sẽ chuyển sang gửi tại những đơn vị có mức phí BHTG thấp (mức độ rủi ro thấp).
Bốn là: Xử lý kịp thời, nghiêm minh những người vi phạm gây thiệt hại đến tài sản của TCTD cũng như những tổ chức và cá nhân lợi dụng chính sách BHTG để trục lợi nhằm chiếm đoạt tiền của tổ chức BHTG để răn đe, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi tiêu cực này.
Th.S Đỗ Quốc Tình
Tài liệu tham khảo:
- http:www.sbv.gov.vn;
- Giáo trình quản trị NHTM Nhà XBTK 2004;
- Báo cáo của DIV