Có thể nói, nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam đã cơ bản vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng, đó là thanh khoản khó khăn, nợ xấu có dấu hiệu tăng cao, chất lượng quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi ro cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống. Bên cạnh đó hệ thống mạng lưới các ngân hàng thương mại (NHTM) phát triển với tốc độ quá nhanh, số lượng nhiều, chất lượng hoạt động giảm sút, không ít ngân hàng hoạt động vì lợi ích cục bộ, chạy đua lãi suất gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ, do đó, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ có nguy cơ xảy ra rủi ro gây mất an toàn hệ thống.
Để ổn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả, bền vững, Đảng và Nhà nước ta đã ra Nghị quyết tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó tái cấu trúc hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính là một trong ba lĩnh vực chủ đạo, quan trọng nhất. Đây là chủ trương lớn thể hiện quyết tâm của Đảng nhằm cải tổ nền kinh tế cùng với đẩy lùi tác động, ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là việc củng cố, chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ thống các TCTD cùng với việc nâng cao năng lực thể chế đảm bảo phát triển hệ thống ngân hàng đa năng, hiện đại, hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả, vững chắc ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo cạnh tranh trong môi trường đầy biến động của thế giới, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng đáp ứng đủ vốn cho phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân cả ở vùng sâu vùng xa đều được tiếp cận với dịch vụ ngân hàng, tạo ra một hệ thống ngân hàng đa dạng về loại hình, về sở hữu, về quy mô, trong đó có những ngân hàng có đủ tiềm lực để cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, cũng có những ngân hàng nhỏ nhưng hoạt động an toàn, lành mạnh trong các phân khúc thị trường khác nhau. Dự kiến sau 5 năm tái cấu trúc, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có ít nhất 2 ngân hàng có đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực, có từ 10-15 ngân hàng đủ lớn làm trụ cột cho các ngân hàng trong nước và khoảng 10 ngân hàng nhỏ hoạt động lành mạnh với quy mô phù hợp.
Phương châm của quá trình tái cấu trúc là không để xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và quyền lợi của khách hàng. Đây cũng là nguyên tắc được Chính phủ đảm bảo trong quá trình tái cấu trúc ngân hàng tại Việt Nam.
Vai trò của BHTG nói chung và BHTG Việt Nam nói riêng
Có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết trong lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tuy nhiên trong khuôn khổ nội dung bài viết này tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh, đó là vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi với tư cách là tổ chức thay mặt Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Hoạt động của các tổ chức tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, trong đó rủi ro thanh khoản có thể gây ra những hậu quả khó lường. Hậu quả đó có thể dẫn tới hệ thống tài chính quốc gia bị tê liệt, xã hội bất ổn, niềm tin của các nhà đầu tư bị giảm sút và nghiêm trọng hơn là tính lan truyền trong lĩnh vực vốn rất nhạy cảm này. Một trong những công cụ phòng ngừa được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay là bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của Chính phủ đối với tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.
BHTG có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định phát triển kinh tế xã hội, góp phần bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo sự an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, thúc đẩy huy động vốn phục vụ phát triển và xử lý khủng hoảng tài chính. BHTG có mục đích cơ bản sau: i) Bảo vệ người gửi tiền nhỏ, hạn chế về mặt thông tin đối với hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. ii) Góp phần đảm bảo hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động lành mạnh, ổn định và ngăn chặn đổ vỡ ngân hàng thông qua các hoạt động nghiệp vụ. iii) Góp phần xây dựng thị trường tài chính lành mạnh, có tính cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tài chính với quy mô và loại hình khác nhau. iv) Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ trong trường hợp xử lý đổ vỡ của tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, vai trò của tổ chức BHTG đối với đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của hệ thống ngân hàng được thể hiện trên ba giác độ: Một là, hoạt động BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng mới ra đời hoặc ngân hàng với quy mô hoạt động hạn chế có điều kiện phát triển tốt hơn do đối với các ngân hàng nhỏ hay ngân hàng mới đi vào hoạt động, người dân có tâm lý lo ngại có thể mất tiền gửi do ngân hàng nhận tiền gửi "bị đóng cửa". Tuy nhiên, khi các tổ chức này tham gia BHTG thì tâm lý đó sẽ được giải toả. Hai là, hoạt động BHTG giúp các ngân hàng thực sự yếu kém, không thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng một cách có trật tự, không gây ảnh hưởng tới các ngân hàng khác. Thông qua nghiệp vụ kiểm tra và giám sát, tổ chức BHTG có thể đánh giá kịp thời thực trạng hoạt động của các ngân hàng tham gia BHTG. Trong trường hợp phát hiện ngân hàng nào đó hoạt động yếu kém, không hiệu quả thì tổ chức BHTG sẽ triển khai một số biện pháp hỗ trợ như: (1) đưa ra phương án sáp nhập với ngân hàng khác; (2) chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm tiền gửi; (3) tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của ngân hàng đó để tiếp tục bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền có số tiền gửi lớn hơn hạn mức chi trả. Ba là, hoạt động BHTG tạo động lực để các ngân hàng cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, kinh nghiệm quốc tế cho thấy tổ chức BHTG tham gia vào quá trình tái cấu trúc ngân hàng rất hiệu quả thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình khi mua bán, sáp nhập và giải quyết các ngân hàng yếu kém một cách êm thấm, không gây xáo trộn lớn trên thị trường, đặc biệt công cụ BHTG đã phát huy rõ rệt vai trò an dân và khôi phục niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Điều đó được minh chứng qua sự đổ vỡ của rất nhiều ngân hàng nhưng không xảy ra hiện tượng người dân đổ xô đi rút tiền hàng loạt.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm giảm bớt rủi ro và tránh khủng hoảng. Chính vì vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, Chính phủ đã sử dụng BHTG như một công cụ cần thiết để chống khủng hoảng thông qua việc trao cho tổ chức BHTG những chức năng quan trọng trong việc xử lý ngân hàng “có vấn đề” cũng như chức năng giám sát rủi ro để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền. Khảo sát mới đây của Hiệp hội BHTG quốc tế đối với 34 quốc gia trên thế giới cho thấy, tất cả các tổ chức BHTG đều được xác định là một cấu phần trong mạng an toàn tài chính của quốc gia đó. BHTG là kênh đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng bên cạnh cơ quan giám sát và là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền.
Tại Việt Nam, nhiều người vấn còn nhớ, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sự đổ vỡ của hàng loạt các hợp tác xã (HTX) tín dụng đã gây nên tâm lý hoang mang cho đại bộ phận dân cư, nhất là những người gửi tiền, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các tổ chức tín dụng nói chung và hệ thống HTX tín dụng nói riêng.
Với mục tiêu cơ bản đặt ra là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền mà trước hết là những người gửi tiền nhỏ không đủ thông tin, kiến thức về tài chính, ngân hàng, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi đã được Chính phủ ký ban hành và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã ra đời, chính thức đưa chính sách bảo hiểm tiền gửi vào thực tiễn. BHTG Việt Nam cùng với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cấu thành mạng an toàn tài chính để phối hợp xử lý các sự cố mất khả năng thanh khoản có thể xảy ra và duy trì lòng tin của người gửi tiền - một yếu tố quan trọng giúp duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Sau 12 năm hoạt động, cho đến nay BHTG Việt Nam đã bước đầu chứng minh được vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, giảm thiểu việc người gửi tiền rút tiền hàng loạt do hoảng loạn, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định và an toàn hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng quốc gia. BHTG Việt Nam đã từng bước triển khai đầy đủ các nghiệp vụ BHTG nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, thực hiện giám sát rủi ro đối với 100% các tổ chức tham gia BHTG, bảo vệ gần 30 triệu người gửi tiền, công khai minh bạch chính sách BHTG, chi trả kịp thời cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị giải thể, phá sản, hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn. Theo số liệu mới nhất của BHTG Việt Nam, từ năm 2000 đến nay BHTG Việt Nam đã chi trả đầy đủ, kịp thời cho khoảng 1.700 người gửi tiền tại 38 QTDND cơ sở trên địa bàn 11 tỉnh, thành phố với tổng số tiền trên 21 tỷ đồng.
Xác định là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng, BHTG Việt Nam đã không ngừng đổi mới chất lượng hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao hơn nữa niềm tin công chúng, đặc biệt trong bối cảnh thực hiện tái cấu trúc hệ thống các TCTD hiện nay. Theo đó, BHTG Việt Nam nâng cao chất lượng giám sát rủi ro, cảnh báo sớm đối với các TCTD, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để nâng cao hiểu biết của người dân về các quy định BHTG, tránh những xáo trộn tâm lý có thể gây ảnh hưởng không tốt tới sự ổn định của thị trường tài chính. Với chức năng nhiệm vụ của mình, BHTG Việt Nam luôn theo sát mọi diễn biến kinh tế xã hội, nắm bắt tình hình hoạt động ngân hàng và chủ động đề xuất với Chính phủ các giải pháp phục vụ cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô, đề xuất và cùng với NHNN có phương án giúp các tổ chức hoạt động yếu kém nhanh chóng vượt qua khó khăn, tránh xảy ra rủi ro lan truyền sang các TCTD khác.
Việc ban hành Luật BHTG là một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa vị thế và vai trò của BHTG Việt Nam nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý ở tầm cao hơn giúp cho BHTG Việt Nam tiếp tục là chỗ dựa vững chắc cho người gửi tiền. Trong thời gian tới, BHTG Việt Nam tiếp tục chú trọng phát triển nguồn nhân lực, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xu hướng quốc tế.
Bài học kinh nghiệm
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, thị trường tài chính ngày càng có sự liên thông giữa các nước đồng nghĩa với việc bất ổn ở bất cứ quốc gia nào cũng có tác động đến các quốc gia khác trên thế giới. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một vấn đề phức tạp không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế. Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, cần có những xem xét, đánh giá kỹ để có biện pháp phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đất nước, nghiên cứu các bước đi trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng từ kinh nghiệm quốc tế, từ đó tìm ra những thông lệ tốt nhất phát huy được vai trò của BHTG và cách thức bảo vệ người gửi tiền. Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đề xuất các gợi ý chính sách cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Những năm trước đây Việt Nam đã từng chứng kiến thành công của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đặc biệt là củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND theo tinh thần Chỉ thị số 57/CT-TW Bộ Chính trị và Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm thực hiện tiến trình củng cố chấn chỉnh, hoạt động của hệ thống QTDND phát triển ổn định, vốn huy động và dư nợ tăng gấp 3 lần, nợ quá hạn giảm từ 3,42% xuống còn 0,6%, số lượng QTDND hoạt động yếu kém giảm đáng kể.
Một thực tế nữa, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở mỗi một quốc gia là khác nhau. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không giống với bất kỳ một quốc gia nào khác, song cũng có những nét tương đồng với một số nước châu Á như Malaysia hay Hàn Quốc (có nhiều ngân hàng nhỏ, phân tán, thiếu những ngân hàng đủ lớn làm trụ cột); có những nét tương đồng với Trung Quốc về văn hóa, mối quan hệ của hệ thống ngân hàng và khối doanh nghiệp nhà nước. Trong số các nước tại khu vực Đông Á, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc được đánh giá là khá tương đồng với hoàn cảnh của Việt Nam lúc này. Việc Chính phủ Hàn Quốc tập trung tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã tạo ra sự thay đổi lớn cho nền kinh tế, khi mà hoạt động của hệ thống ngân hàng được vận hành theo cơ chế thị trường hiệu quả, ngay cả trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế.
Như vậy, lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tham khảo những thành công đã đạt được theo tinh thần Chỉ thị số 57/CT-TW Bộ chính trị thời gian trước, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, trước hết là quá trình xây dựng hệ thống ngân hàng mạnh với những ngân hàng đủ lớn như ở Malaysia và Hàn Quốc, hay những biện pháp quyết liệt của Chính phủ Trung Quốc nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả, an toàn và chất lượng hoạt động của những ngân hàng trụ cột, đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế và vươn tầm cạnh tranh khu vực. Một vấn đề không kém phần quan trọng đó là cần trao cho tổ chức BHTG những công cụ cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ với vai trò của một tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện chính sách công của Chính phủ về BHTG, một trong những mắt xích quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng quốc gia.