PV: Ông đánh giá thế nào về các đợt kêu gọi đồng thuận lãi suất trước đây của VNBA?
TS. Nguyễn Minh Phong: Thực tế, cả 2 đợt kêu gọi đồng thuận lãi suất trước đây của VNBA đã không thu được kết quả bao nhiêu. Dường như trần lãi suất mới chỉ có giá trị danh nghĩa, mang tính tượng trưng, hình thức nên dễ bị các NHTM án binh bất động hoặc “lách qua” bằng vô số chiêu khuyến mãi đủ loại và ngày càng phong phú. Nói cách khác, dường như các NHTM dễ đồng thuận trong hội nghị hơn là thống nhất trong hành độngtheo cam kết đã thỏa thuận về trần lãi suất huy động. Bằng chứng là chủ trương kéo lãi suất huy động xuống 10%/năm lỗi hẹn, còn mức trần 12%/năm thì nhanh chóng trở thành mức sàn, vì thực tế nhiều ngân hàng đã huy động trên 13,5-14%/năm thậm chí tới mức 18-19%/năm cho những khách gửi tiền lớn và biết “làm giá”. Sự bất thành trong cả 2 đợt kêu gọi đồng thuận trần lãi suất huy động này nói lên một thông điệp: phải chăng là mức trần lãi suất huy động này nói lên một thông điệp: phải chăng là mức trần lãi suất đồng thuận đặt ra không khả thi, hoặc có sức ép nào mạnh hơn cả sự đồng thuận mang tính cộng đồng khá lỏng lẻo này?
Bởi quan sát thực tế cho thấy, không phải ngân hàng nào cũng muốn cạnh tranh bằng lãi suất huy động cao, nhất là những ngân hàng đã “đạt chuẩn” về vốn điều lệ và các khoản dự trữ an toàn khác về hoạt động tín dụng theo yêu cầu của NHNN, cũng như có sự lành mạnh tài chính cao. Kinh nghiệm trong nước và thế giới cũng cho thấy, lãi suất huy động cao cũng không phải là thước đo duy nhất đánh giá sức mạnh của ngân hàng, nếu không nói là ngược lại. Việc ngân hàng có mức lãi suất huy động không bình thường cho thấy có những dấu hiệu không bình thường về “sức khỏe” hoặc mục tiêu kinh doanh của mình, cần được giải trình và giám sát để đảm bảo an toàn hệ thống chung.
PV: Vậy theo ông, việc đồng thuận ở mức 14%/năm trong thời điểm hiện nay liệu có khả thi hay lại đi theo “vết xe trượt” của 2 lần trước?
TS. Nguyễn Minh Phong: Theo tôi, mức đồng thuận 14% như hiện nay là cần thiết và có tính khả thi cao hơn 2 lần trước, vì lẽ:
Thứ nhất, mức trần lãi suất huy động được đồng thuận hợp lý hơn so với 2 mức đồng thuận trước đây, sát với mức bình quân thị trường và mức lạm phát chung của nền kinh tế. Đây là điểm quan trọng nhất để các ngân hàng tự giác thực thi vì lợi ích chung của cộng đồng và của chính mình.
Thứ hai, việc hơn 10 ngân hàng chưa đạt chuẩn đã được cho phép giãn tiến độ đạt chuẩn 3.000 tỷ đồng vốn điều lệ đến cuối năm 2011. Điều này cũng rất quan trọng vì sức căng của cung – cầu thị trường đã được xả bớt đáng kể, làm dịu đi cuộc đua hút vốn bằng mọi giá cho mục tiêu “tồn tại hay không tồn tại” của các ngân hàng này.
Thứ ba, lần đồng thuận này có tính quy chuẩn cao hơn, bởi lời cam kết thực thi nghiêm túc đầy “trang trọng” của đích danh các tổng giam đốc các NHTM, đặc biệt là sự vào cuộc giám sát và xử lý kịp thời các vi phạm của NHNN theo lời thỉnh cầu của VNBA…
Thực tế, trần lãi suất huy động của các NHTM trên thịị trường đang cho thấy hiệu ứng tích cực, mức lãi suất đã lùi dần về chuẩn trên.
PV: Thế nhưng, việc đồng thuận dường như đi ngược với chủ trương tự do hóa lãi suất mà NHNN đang cố công xây dựng. Vậy để kiềm tỏa những mặt trái, phát huy những tác động tích cực của việc dự do hóa lãi suất huy động, cần chú ý những điểm gì, thưa ông?
TS. Nguyễn Minh Phong: Theo tôi có 3 điểm cơ bản cần chú ý: Một mặt, trước mắt, thực hiện mềm hóa biên độ trần lãi suất huy động phù hợp cung – cầu thị trường và bảm đảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng.
Mặt khác, đẩy nhanh nghiêm túc các hoạt động chuẩn hóa và lành mạnh hóa các ngân hàng cả về tài chính và cơ chế quản trị theo kế hoạch tái cơ cấu và yêu cầu tập chung, sáp nhập các ngân hàng không đủ vốn điều lệ theo pháp định và kiên quyết loại bỏ các cá thể yếu.
Đồng thời, cần nhanh chóng chuẩn hóa và thống nhất cơ sở pháp lý liên quan đến các hoạt động ngân hàng, nhất là các quy định giữa luật Ngân hàng và luật Dân sự có liên quan về vay và cho vay, về định danh các hành vi cho vay nặng lãi, huy động vốn với lãi suất cao có tính lừa đảo, hoặc có tính chất phá hoại ổn định vĩ mô nhằm có cơ sở định danh, xử lý và hạn chế tội phạm tài chính – ngân hàng; đồng thời cần hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát và xử lý các rủi ro tài chính – ngân hàng, tăng cường các hoạt động thanh tra, các hoạt động thông tin, chủ động phòng ngừa và xử lý các yếu tố tâm lý và tin đồn, đầu cơ, lũng đoạn và gây nhiễu, cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng; tăng cường giáo dục cho các bên kiến thức và trách nhiệm cá nhân và xã hội khi vay và cho vay… Ngoài ra, cần hoàn thiện hơn các công cụ quản lý khác như găn kết quy mô huy động tín dụng tới mức vốn điều lệm hạn mức tín dụng mức dự trữ tỷ lệ nợ quá hạn,cơ cấu huy động và cho vay; tăng cường sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở; giãn biên độ tỷ giá…
Bản thân các ngân hàng, nhất là ngân hàng nhỏ mới thành lập, lâu nay chỉ chú ý đến mặt kinh doanh, cũng cần chủ động dự báo tình hình thị trường, phân tích được những tín hiệu về chính sách chống lạm phát và chuẩn bị trước, thực hiện dự phòng rủi ro tốt, kiểm soát tín dụng hợp lý, tránh coi nhẹ an toàn và quản trị kinh doanh, tối đa hóa quay vòng vốn, hoặc chủ quan, ỷ vào NHNN, thị trường mở…
PV: Theo ông công tác giám sát gữa các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia nói chung và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nói riêng cần được thực thi như thế nào cho có hiệu quả?
TS Nguyễn Minh Phong: Chúng ta đang hoạt động trong một nền kinh tế chuyển đổi, mà đặc điểm của nó là các cơ chế đang từng bước hoàn thiện và có độ nhạy cảm khá cao, hoạt động giám sát của nước ta cũng còn chồng chéo, nhiều tầng nấc nhưng chưa chặt và chưa hiệu quả. Vì vậy, để hoạt động giám sát hiệu quả, theo thông lệ quốc tế, chúng ta cần nghiên cứu thành lập một Ủy ban điều phối giám sát tổng thể kết hợp với các giám sát chuyên ngành trong mạng an toàn tài chính quốc gia do Thủ tướng chỉ đạo. Các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia phải thực hiện nhiệm vụ của mình trên cơ sở nền tảng pháp lý tốt nhất là Luật. Các tổ chức này thông thường phải có bản ghi nhớ về chỉ tiêu giám sát, phương pháp giám sát, cách thức phối hợp và chia sẻ thông tin trong giám sát và xử lý sau giám sát. Đồng thời, mô hình kiến trúc giám sát cần xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các bộ phận giám sát cũng như sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong mạng này.
Ở Việt Nam hiện nay, mạng an toàn tài chính gồm 4 thành viên là: UB Giám sát tài chính quốc gia, NHNN, Bộ Tài chính và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Tuy nhiên khái niệm mạng an toàn tài chính chưa được xác định chính thức Quy định về phối hợp với các cơ quan giám sát khác chưa có hoặc có nhưng hiệu lực chưa cao. Vì vậy, điều cần thiết lúc này là lập cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng có hiệu quả giữa các cơ quan chủ chốt liên quan tới ổn định tài chính quốc gia. Theo đó, giám sát vĩ mô đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định tài chính, tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi qua đó, làm cho từng định chế tài chính dược an toàn hơn, Đặc biệt cần cải cách hệ thống Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo hướng chuyện nghiệp theo bộ 18 Nguyên tắc phát triển Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả mà thế giới đang áp dụng.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!