Quay trở lại quãng thời gian từ 2009 đến 2010, khi giá bất động sản tăng từng ngày từng giờ, nhà nhà người người đều hy vọng đổi đời với đất, người có tiền đầu cơ đất người không có tiền thì đi vay để đầu cơ với mong muốn và niềm tin chắc chắn ngày mai giá đất sẽ tăng hơn hôm nay. Tuy nhiên, sang đến thời điểm đầu năm 2011, để đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng, tránh mở rộng tín dụng quá mức ở lĩnh vực phi sản xuất, đảm bảo sự tăng trưởng lành mạnh của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục cảnh báo và áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các ngân hàng tăng cho vay phi sản xuất như giảm tỉ lệ tín dụng phi sản xuất xuống 22% vào 30/6/2011 và xuống 16% vào 31/12/2011. Để đảm bảo thực hiện được điều này các ngân hàng thương mại phải tăng cường thu nợ từ cá nhân và doanh nghiệp vay vốn đầu tư vào bất động sản, chứng khoán dẫn đến nhà đầu tư phải tìm cách bán tháo chứng khoán, bất động sản để tìm nguồn trả nợ kéo theo hệ lụy là thị trường chứng khoán liên tục lập đáy mới và bất động sản tiếp tục kéo dài chuỗi ngày giao dịch trầm lắng, giảm giá, hạ nhiệt dần. Trong khi đó, các nhà đầu tư dồn hết tiền vào các thị trường này đã mất dần khả năng thanh toán, nhiều người cố gắng bám víu vào tín dụng đen để duy trì khả năng thanh khoản, song với mức lãi suất cao “cắt cổ”, ít người có thể trụ được thời gian dài và hậu quả tất yếu là phá sản và đổ vỡ lan truyền.
Đứng ở giác độ của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi – cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (TCTD), có vai trò giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, phát hiện kịp thời những biến động để bảo vệ người gửi tiền - một câu hỏi quan trọng đặt ra đó là mức độ ảnh hưởng của đổ vỡ tín dụng đen với khả năng hoạt động, chất lượng tín dụng của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi? Đặc biệt là các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở - là loại hình tổ chức tín dụng quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu ở khu vực nông thôn, nơi nạn tín dụng đen hoành hành như thế nào và phải đánh giá được những rủi ro tiềm ẩn đối với người gửi tiền của các tổ chức này trong cơn bão tín dụng đen.
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và khủng hoảng tín dụng đen
Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là loại hình TCTD hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. QTDND thường hoạt động trong một địa bàn dân cư nhất định, thường trên địa bàn một phường, một xã.
Với hơn 1000 QTDND cơ sở và QTDND Trung ương, hệ thống QTDND thời gian qua đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình tạo lập nguồn vốn và luân chuyển vốn cho phát triển là mô hình hoạt động có hiệu quả kinh tế xã hội, đặc biệt phù hợp với đặc điểm nông nghiệp nông thôn Việt Nam và dần khẳng định vị thế của mình trong cho vay phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống QTDND gặp nhiều khó khăn hơn các loại hình tổ chức tín dụng khác do quy mô hoạt động của QTDND nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế, tính hệ thống yếu nên khả năng tự bảo vệ của QTDND thấp, các khoản cho vay chủ yếu là cho vay nông nghiệp nông thôn nên rủi ro cao. Nếu quản trị tài sản có và tài sản nợ không tốt rất dễ dẫn đến những rủi ro trong thanh khoản.
Với đặc thù hoạt động chủ yếu trong một địa bàn hẹp thường là một xã, do đó nguy cơ ảnh hưởng của tín dụng đen đến chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản của QTDND cơ sở là rất lớn nếu trên địa bàn hoạt động của QTDND phát sinh hoạt động tín dụng đen. Điều này sẽ xảy ra khi thành viên của QTDND cơ sở cầm cố tài sản, hay lập hồ sơ khống, nhằm vay vốn rồi lấy tiền vay được cho vay lại ngoài xã hội để hưởng chênh lệch lãi suất. Nếu hoạt động kiểm tra sử dụng vốn vay không chặt chẽ, không phát hiện được những khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, vay tiền từ QTDND để cho vay lãi suất cao ngoài xã hội, một khi khủng hoảng tín dụng đen bùng phát thì nguy cơ nợ xấu gia tăng tại các TCTD này là điều có thể nhìn thấy trước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi thị trường bất động sản đang đóng băng, tính thanh khoản của thị trường thấp, tài sản đảm bảo – đặc biệt là bất động sản tại nông thôn không phải lúc nào cũng có thể phát mại được, dẫn đến khả năng thu hồi vốn cũng hẹp dần lại. Bên cạnh đó, một trong những rủi ro mà các tổ chức này phải đối phó chính là rủi ro đạo đức phát sinh từ chính đội ngũ cán bộ của QTDND, nếu cán bộ của quỹ làm trái các quy định về tín dụng, hay lợi dụng vị trí của mình để rút vốn từ quỹ đem cho vay ngoài. Do đó, việc tăng cường công tác quản trị hoạt động của bản thân các QTDND là vô cùng quan trọng, điều này sẽ giúp giảm thiểu rủi ro có thể phát sinh, đặc biệt trong giai đoạn thị trường tiềm ẩn nhiều bất ổn như hiện nay.
Tăng cường hoạt động giám sát của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – tổ chức tài chính của nhà nước được thành lập từ năm 1999 với mục tiêu quan trọng là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, nâng cao nhận thức của công chúng vào hệ thống tài chính quốc gia – chức năng giám sát các tổ chức tham gia BHTG đã được khẳng định trong Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 và Nghị định Số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi. Trong thực tiễn từ năm 2000 đến nay Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực hiện khá tốt vai trò của mình trong việc giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, đã triển khai giám sát 100% các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi bao gồm 88 ngân hàng thương mại, 12 tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 1072 QTDND cơ sở và QTDND trung ương (số liệu đến 30/6/2011), kịp thời phát hiện những TCTD có những dấu hiệu bất thường trong hoạt động, đưa ra những cảnh báo sớm và đề xuất phương án xử lý hiệu quả, không để xảy ra sự cố rút tiền hàng loạt, ngăn chặn được hiện tượng đổ vỡ dây chuyền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động cho các tổ chức tham gia BHTG.
Trong bối cảnh hiện nay, khi số lượng những vụ đổ vỡ tín dụng đen ngày càng nhiều, tập trung tại những vùng quê nghèo, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với hoạt động giám sát của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đó là tăng cường và nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát các tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt là đối với hệ thống QTDND cơ sở. Để làm được điều này, tác giả xin đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, yêu cầu cán bộ làm công tác giám sát bám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng được giao quản lý, phân tích kỹ các chỉ tiêu tài chính do đơn vị cung cấp, tập trung phân tích các chỉ tiêu liên quan đến nợ xấu và thanh khoản của đơn vị, kịp thời phát hiện những dấu hiệu bất thường để cảnh báo kịp thời hoặc đề xuất giám sát tại chỗ nếu thấy cần thiết.
Hai là, tăng cường nắm bắt các nguồn thông tin trên địa bàn được giao quản lý, nguồn thông tin này có thể là từ Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn, từ các cơ quan hữu quan như UBND xã, từ người dân trên địa bàn. Để làm được được này, các Chi nhánh của BHTG Việt Nam cần xây dựng được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các Chi nhánh NHNN, các cơ quan hữu quan trên địa bàn; cán bộ BHTG trong quá trình tác nghiệp kiểm tra tại chỗ cần nhạy bén trong việc xây dựng đội ngũ cộng tác viên cho riêng mình, hướng dẫn các QTDND cơ sở thực hiện tuyên truyền về hoạt động BHTG, xây dựng đường dây nóng và số điện thoại miễn phí để người dân khi cần hoặc muốn thông tin cho tổ chức BHTG có thể thực hiện thuận lợi nhất. Tiến hành thẩm tra, xác thực thông tin để có hướng xử lý kịp thời, ra các cảnh báo sớm khi thấy cần thiết.
Ba là, thực hiện ra văn bản cảnh báo về “tín dụng đen” đến các QTDND cơ sở đề nghị các tổ chức này tăng cường công tác quản trị chất lượng tài sản có và tài sản nợ của mình, đẩy mạnh hoạt động quản lý và sử dụng vốn vay, kịp thời phát hiện và thu hồi vốn vay sai mục đích sử dụng, cải thiện chất lượng sử dụng vốn. Đồng thời cũng đề nghị các đơn vị kịp thời cung cấp thông tin cho BHTG VN và thực hiện rà soát các khoản tín dụng của đơn vị nếu trên địa bàn phát sinh đổ vỡ “tín dụng đen” đề phòng ngừa những nguy cơ ảnh hưởng của khủng hoảng “tín dụng đen” với đơn vị mình.