Từ tầm lợi ích quốc gia
Đối phó với tình hình, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã tích cực áp dụng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, kết quả đạt được, nhất là các kết quả ổn định vĩ mô, cho đến nay, vẫn còn cách khá xa sự mong đợi.
Nguyên nhân nào gây ra tình trạng trên?
Có hai nhóm nguyên nhân chính.
Nhóm thứ nhất thuộc về những yếu kém mang tính cơ cấu nội tại của nền kinh tế - tăng trưởng nóng, việc phân bổ các nguồn lực phát triển thiên lệch, chi tiêu ngân sách không hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn thấp, cơ cấu kinh tế kém sức cạnh tranh, v.v. Những yếu kém này có nguồn gốc từ việc duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thô, vào vốn, vào lao động kỹ năng thấp, vào các doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn kém hiệu quả. Mức cao hiếm thấy của chỉ số ICOR của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây chứng tỏ tiền bơm ra thị trường nhiều nhưng khối lượng sản phẩm thu được không tương xứng. Trong môi trường thị trường mở, tính cạnh tranh rất cao, đó là nguồn gốc của các mất cân đối vĩ mô lớn, của xu hướng mất giá đồng tiền và lạm phát tăng cao.
Nhóm nguyên nhân thứ hai của tình trạng bất ổn vĩ mô khó được kiềm chế, thậm chí gia tăng, liên quan đến cách thức điều hành vĩ mô. Những nỗ lực của Chính phủ và các cơ quan chức năng trong việc chống lạm phát, ổn định vĩ mô là rất tích cực, song như thị trường cho thấy, tích cực vẫn là chưa đủ. Việc đưa ra các thông điệp chính sách thiếu nhất quán; việc áp dụng nặng về các biện pháp hành chính, mang tính tình thế ngắn hạn hơn là các giải pháp kinh tế bài bản và hệ thống; sự phối hợp thiếu đồng bộ các giải pháp ổn định vĩ mô, đặc biệt là giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ, v.v. vô hình trung hình thành nên một môi trường chính sách có tính bất định cao, khó dự đoán. Trong môi trường đó, kinh doanh chịu nguy cơ rủi ro cao; còn lòng tin thị trường khó giữ vững.
Phải làm gì để khôi phục lòng tin thị trường, để người có tiền không lo đồng tiền bị mất giá, để mồ hôi, công sức của mình không bị đổ vô ích xuống sông, xuống biển, để đồng tiền không bị ném vào quỹ đạo đầu cơ ngắn hạn đầy rủi ro?
Về mặt nguyên tắc, vì là nước đi sau, Việt Nam có nhiều cơ hội tìm ra câu trả lời để nhanh chóng tháo gỡ tình hình. Thực tiễn chống lạm phát, ổn định vĩ mô của Việt Nam hơn 25 năm qua cung cấp một chân lý: bình tĩnh ứng xử, chú trọng các giải pháp bài bản, hệ thống; phối hợp đồng bộ các tuyến giải pháp thì thành công. Cách ứng xử nặng về tình thế, đối phó ngắn hạn, dựa chủ yếu vào can thiệp hành chính và thiếu phối hợp chứa đựng những nguy cơ gây bất ổn hơn là tạo lập ổn định.
Theo cách tiếp cận đó, để kiến tạo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc và an toàn cho Việt Nam, tại thời điểm hiện nay, bên cạnh các giải pháp mang tính tình thế về kiềm chế lãi suất, giữ ổn định tỷ giá, v.v., chúng ta phải chú ý đến các giải pháp mang tính nguyên tắc, có tầm chiến lược dài hạn, ví dụ như điều chỉnh mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, hoặc cụ thể hơn – cắt giảm chi tiêu công trong nỗ lực thay đổi chế chi tiêu ngân sách nhà nước và tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế nhà nước, gắn với việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, v.v.
Đến lợi ích của người dân và doanh nghiệp
Trong tầm nhìn chung về ổn định vĩ mô, về giá trị đồng tiền như một giá trị quốc gia, có chứa đựng lợi ích thiết thực của những người có tiền – đang cầm tiền hay gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Mục tiêu cụ thể là phải bảo vệ lợi ích của họ. Nguồn vốn của ngân hàng phần lớn đến từ tiền gửi của người dân, của doanh nghiệp. Thế nên, để duy trì nó, các ngân hàng phải thu hút tiền gửi dân cư bằng các chiêu thức như lãi suất hấp dẫn, bốc thăm trúng thưởng, khuyến mại,… Nhưng từ phía người gửi tiền, họ quan tâm không chỉ đến lãi suất mà còn đến cả sự ổn định của thị trường tài chính, ổn định vĩ mô của nền kinh tế, và ổn định của chính các ngân hàng, tổ chức tín dụng, nơi nhận tiền gửi.
Người gửi tiền muốn được đảm bảo rằng tiền gửi của họ sẽ không bị mất trắng trong trường hợp định chế tài chính phá sản. Tình huống này đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế chịu cú sốc tiêu cực từ bên ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra vào năm 2008. Với các cú sốc như này, nền kinh tế rất dễ rơi vào vòng xoáy đi xuống. Một trong những nhân tố ngăn cản vòng xoáy là gây dựng niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính. Một khi lòng tin bị xói mòn, người dân sẽ không gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Ngược lại, họ tìm cách rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khi đó, nguồn cung tín dụng cho các doanh nghiệp cũng sẽ giảm nhanh, kéo theo sự suy giảm của hoạt động kinh doanh, người lao động mất việc làm, số tiền mà doanh nghiệp vay từ hệ thống ngân hàng không có khả năng hoàn trả. Kết cục là vòng xoáy: doanh nghiệp gặp khó khăn, ngân hàng gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp phá sản tăng, người dân lại càng mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng.
Trong mấy năm trở lại đây, tình trạng này càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng. Lạm phát tăng cao và khó được kiềm chế; các giải pháp điều hành vĩ mô nhằm tạo sự ổn định mang nặng tính tình thế, tính hành chính, nhiều thông điệp chính sách đưa ra thiếu nhất quán, thậm chí trái chiều, xung đột nhau. Tình trạng đó tạo thành cơ sở của sự sụt giảm lòng tin thị trường và gia tăng bất ổn vĩ mô. Trong môi trường như vậy, kết cục tất yếu sẽ là xu hướng đầu cơ lấn át, thay cho các hoạt động đầu tư dài hạn. Nói tóm lại, một khi lòng tin của người gửi tiền bị xói mòn, nó sẽ tạo nên một vòng xoáy làm cho cả nền kinh tế và niềm tin trở nên tồi tệ hơn. Vì thế, việc đề ra các giải pháp cấp thiết bảo vệ người gửi tiền không chỉ đảm bảo duy trì ổn định và phát triển thị trường tài chính Việt Nam mà còn thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất, nền kinh tế thông qua dòng tín dụng lành mạnh chảy đều đặn từ hệ thống ngân hàng đến các doanh nghiệp, các dự án sản xuất.
Theo logic đó, để được an toàn, người gửi tiền không chỉ cần sự ổn định bền vững vĩ mô mà còn cần cả tấm lá chắn bảo vệ đồng tiền của ngay cả trong khi xẩy ra rủi ro.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi bấp bênh và còn ẩn chứa nhiều rủi ro, nền kinh tế trong nước vừa mới thoát ra khỏi đáy của cuộc khủng hoảng và đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng, thì việc củng cố lòng tin của người gửi tiền là thực sự cần thiết. Một trong các biện pháp trước mắt mà Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam có thể làm là nâng hạn mức bảo hiểm cho người gửi tiền khi nền kinh tế gặp khó khăn nhằm tăng niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng. Thứ hai, về lâu dài, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam cần xây dựng một cơ chế phản ứng tự động trước tình hình kinh tế trong nước dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được thiết lập cẩn thận và có tính khả thi cao. Thứ ba, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, thậm chí cả với Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ và các cơ quan liên quan nhằm thực hiện giám sát hệ thống ngân hàng, thu nhập, phân tích, và dự báo kịp thời tình trạng "sức khỏe" của các doanh nghiệp để có thể thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền từ xa và toàn diện.
Trên đây mới đề cập đến các giải pháp bảo vệ người gửi tiền từ phía Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, còn một yếu tố nữa có thể làm người dân gửi tiền vào hệ thống ngân hàng "mất tiền" là lạm phát. Trong thời kỳ lạm phát thấp và ổn định, người dân tin cậy hơn vào hệ thống ngân hàng và tự tin hơn khi gửi tiền vào đó. Trong thời kỳ lạm phát cao và biến động mạnh như năm nay, người dân sẽ cân nhắc kỹ hơn khi gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vì giá trị đồng tiền gửi vào hôm nay sẽ thấp hơn nhiều giá trị của đồng tiền rút ra vào ngày mai. Khoản mất đi này bằng với khoảng vênh giữa lạm phát và lãi suất tiết kiệm. Lạm phát càng dâng cao thì số tiền mất đi càng lớn, người dân càng giảm động lực gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng càng ít tiền cho doanh nghiệp vay,… Tuy nhiên, khoản mất mát này của người gửi tiền lại không thể được bù đắp thông qua Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam. Có thể trong tương lai, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam cần thiết lập được cơ chế cho phép bảo hiểm với cả những mất mát loại này. Nhưng hiện nay, giải pháp cấp thiết trong tình cảnh này phụ thuộc vào các giải pháp của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Như vậy, việc cam kết đảm bảo nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định và vững chắc từ phía Chính phủ như giảm lạm phát; giảm thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại; giảm đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước,… cũng được coi là những biện pháp quan trọng nhằm bảo vệ người gửi tiền bên cạnh những giải pháp từ phía Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam. Chỉ khi có được các giải pháp tổng thể và toàn diện, đến từ các công cụ, từ các cơ quan khác nhau nhằm bảo vệ tiền gửi của người dân trong hệ thống ngân hàng thì mới có cơ sở hy vọng vào sự ổn định và phát triển bền vững của thị trường tài chính.