Nhận diện đúng nợ xấu
Thông tư 02 được ban hành ngày 21/1/2013. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá tác động của Thông tư, Thống đốc NHNN đã cho lùi thời hạn có hiệu lực từ ngày 01/6/2013 sang ngày 01/6/2014 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn ngân hàng, hỗ trợ thúc đẩy tín dụng cho nền kinh tế, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; đồng thời giúp cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thêm thời gian để chủ động xây dựng lộ trình thực hiện và chuẩn bị các điều kiện áp dụng đầy đủ Thông tư 02.
Theo ông Nguyễn Hữu Nghĩa - Chánh Thanh tra NHNN, Thông tư 02 ra đời trong bối cảnh nợ xấu của nền kinh tế đang có chiều hướng gia tăng rất mạnh và yêu cầu về xử lý nợ xấu đang trở thành vấn đề cấp bách của cả nền kinh tế. Thông tư 02 được ban hành nhằm hỗ trợ cho việc nhận diện và đề xuất các giải pháp xử lý nợ xấu theo đúng tinh thần của QĐ843 của Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt đề án xử lý nợ xấu. Thời gian qua, nợ xấu gia tăng phản ánh qua thống kê của NHNN. Cho tới giữa năm 2013 nợ xấu mới có chiều hướng giảm nhờ các giải pháp tích cực nâng cao các năng lực quản trị, rủi ro tín dụng, xử lý nợ xấu.
Đồng tình với quan điểm này, với tư cách là tổ chức tài chính giám sát từ xa các TCTD tham gia BHTG, ông Nguyễn Mạnh Dũng - Phó Tổng giám đốc BHTGVN cho rằng, Thông tư 02 có ý nghĩa rất quan trọng vì nó đã tiếp cận và từng bước áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cụ thể, Thông tư 02 giúp các TCTD chi nhánh ngân hàng nước ngoài báo cáo chính xác hơn chất lượng tín dụng, nợ xấu, từ đó phục vụ cho quá trình thực hiện tái cơ cấu theo quy định số 254 của Thủ tướng Chính phủ về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 – 2015.
Những vấn đề đặt ra khi triển khai Thông tư 02
Nhận định về những vấn đề đặt ra khi triển khai Thông tư 02, ông Nguyễn Hữu Nghĩa nhấn mạnh: nợ xấu của các ngân hàng gia tăng mạnh, kéo theo chi phí trích lập dự phòng rủi ro cũng gia tăng. Điều đó ảnh hưởng đến trạng thái tài chính, kết quả kinh doanh của các NHTM. Tuy nhiên, dưới góc độ của cơ quan quản lý, khi thực trạng về nợ xấu được xác định đầy đủ hơn sẽ giúp các cơ quan quản lý có giải pháp triển khai tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Dù trong ngắn hạn, các ngân hàng có thể suy giảm kết quả kinh doanh, nhưng trong trung và dài hạn đạt nhiều lợi ích. Ông Nghĩa cũng khẳng định, để áp dụng Thông tư 02 hiệu quả, đảm bảo việc hỗ trợ cho nền kinh tế, doanh nghiệp và khu vực ngân hàng, NHNN sẽ tiến hành việc xem xét, từ đó chỉnh sửa cho phù hợp hơn. Đặc biệt, một số quy định trong thông tư này sẽ được NHNN cân nhắc lộ trình thích hợp.
Với thắc mắc của một thính giả nghe đài hỏi về nguy cơ các ngân hàng nhỏ, vốn và công nghệ hạn chế có thể bị rơi vào khó khăn và phải sáp nhập, giải thể sau khi áp dụng Thông tư 02, ông Nguyễn Hữu Nghĩa lý giải: tác động của văn bản này không phụ thuộc vào quy mô của TCTD mà phản ánh chất lượng tín dụng của các tổ chức, buộc phải tái cơ cấu và xử lý nợ xấu theo các giải pháp mà Thủ tướng CP đã phê duyệt
Ông Đào Hảo – Phó tổng giám đốc Vietcombank cho rằng: các TCTD cần có lộ trình triển khai và đánh giá tác động cụ thể của Thông tư 02. Đồng thời, để giảm bớt rủi ro tác động đến phân loại nợ cũng như giảm tải khối lượng công việc, cần phải có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin. Về phía Vietcombank, ngân hàng này đã thành lập nhóm triển khai ngay sau khi Thông tư 02 được ban hành. Theo đó, các thành viên nhóm này thực hiện báo cáo hàng tháng về quá trình thực hiện, soạn thảo các văn bản để triển khai, xây dựng hệ thống phân loại nợ tự động, thực hiện kết nối thông tin với khách hàng. Nhờ vậy, Vietcombank đã sẵn sàng áp dụng nghiêm túc Thông tư 02.
Từ kinh nghiệm và quan sát của BHTGVN ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, theo ông Nguyễn Mạnh Dũng, về tổng thể quá trình triển khai cần thực hiện nhanh, có hệ thống quy định rõ ràng giữa các bên liên quan trong quá trình tái cấu trúc và trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân. Mặt khác, cần chú ý mục tiêu giảm thiểu các rối loạn, ngưng trệ trong hệ thống thanh toán và khôi phục niềm tin vào hệ thống tài chính; giảm chi phí phát sinh trong quá trình tái cơ cấu và có biện pháp tránh tái phát yếu kém trong tương lai. Trong quá trình tái cấu trúc, các nước đều quan tâm tới tái cơ cấu, tăng cường quản lý rủi ro cho hệ thống ngân hàng, coi đây là công tác cần đi trước một bước, bởi hệ thống ngân hàng có ổn định mới hỗ trợ được cho doanh nghiệp.
BHTG và niềm tin đối với người dân
Với chức năng là cơ quan bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, hiện nay BHTGVN thực hiện giám sát 100% tổ chức tham gia BHTG (khoảng 1200 TCTD). Theo ông Nguyễn Mạnh Dũng, thông qua hoạt động giám sát rủi ro đối với các TDTC, gần 40 triệu người gửi tiền ở Việt Nam không chỉ được bảo vệ trực tiếp khi tổ chức nhận tiền gửi bị giải thể, phá sản mà còn được bảo vệ gián tiếp và chủ động nhằm ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro ngay từ rất sớm. Nguồn vốn mà ngân hàng đem cho doanh nghiệp vay có được từ rất nhiều nguồn khác nhau, nhưng trong đó có phần hết sức quan trọng là từ người gửi tiền. Do đó, nếu niềm tin của người gửi tiền và toàn xã hội vào hệ thống ngân hàng được nâng cao, thì lượng tiền vào sẽ dồi dào, từ đó có tác động tích cực tới hoạt động tích cực đến sản xuất kinh của doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Khẳng định BHTG có vai trò quan trọng để giữ vững, củng cố và cải thiện niềm tin của người gửi tiền, ông Nguyễn Hữu Nghĩa cho rằng cần tăng thêm sức mạnh cho BHTGVN để tổ chức này xứng đáng là công cụ hỗ trợ mạnh cho hoạt động kinh doanh của các TCTD, đằng sau các khoản tiền gửi của dân đã có BHTGVN đứng ra bảo hiểm. Bên cạnh đó, cần có nhiều chính sách khác hỗ trợ, củng cố niềm tin này, đó là minh bạch, công khai các hoạt động tín dụng, hay các biện pháp đẩy mạng truyền thông để người dân có đánh giá, lựa chọn đúng đắn TCTD khi gửi tiền.
Liên quan tới câu hỏi của thính giả ở Kon Tum đề nghị nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm để gia tăng niềm tin của người dân, ông Nguyễn Mạnh Dũng cho biết BHTGVN đang kiến nghị NHNN và các cơ quan liên quan sớm nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm lên khoảng 200 triệu đồng thay vì hạn mức 50 tiệu đang áp dụng.
Có thể nói, nâng cao tính minh bạch, tăng cường năng lực quản trị rủi ro và khả năng đối phó với rủi ro của hệ thống các TCTD Việt Nam rất cần thiết, là đòi hỏi bức thiết khi hội nhập – mở cửa. Làm được điều này, cùng với công cụ BHTG đang được triển khai hiệu quả sẽ củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính. Song hành với đó, cần điều chỉnh những quy định BHTG không còn phù hợp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng ngày càng hiệu quả, góp ích cho nền kinh tế - đúng với chức năng là hệ tuần hoàn nuôi cơ thể nền kinh tế.