Chính sách bảo hiểm tiền gửi cũng được nhắc đến nhiều sau khủng hoảng và được nhiều quốc gia nghiên cứu triển khai hoàn thiện vì trong quá trình tìm đường thoát khỏi khủng hoảng để thấy vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, cách tổ chức và thực hiện chính sách này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào các tổ chức tín dụng, kiểm soát đột biến rút tiền gửi ngân hàng, tạo môi trường ổn định cho hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng, tránh đổ vỡ dây chuyền và hạn chế được những tác động xấu của phá sản ngân hàng đến nền kinh tế.
Theo nghiên cứu của Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi thế giới (IADI), trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong mỗi hoạt động của nghiệp vụ xử lý tổ chức tín dựng có vấn đề ở mỗi quốc gia là khác nhau được quy định phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu chung của quốc gia đó, tuy nhiên biện pháp xử lý những ngân hàng đổ vỡ là một phần thiết yếu trong hoạt động của tất cả các tổ chức bảo hiểm tiền gửi và các tổ chức bảo đảm an toàn tài chính khác.
Theo kinh nghiệm thực tiễn và qua nghiên cứu của IADI, để quá trình xử lý các tổ chức tín dụng đổ vỡ và có nguy cơ đổ vỡ đạt được hiệu quả cao nhất cần xây dựng được khung pháp lý thống nhất và bộ tiêu chuẩn chuẩn mực để xác định khi nào được phép và khi nào cần can thiệp vào các vấn đề của các tổ chức tín dụng gặp khó khăn. Khi xác định được vấn đề này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ có được cơ sở cần thiết để can thiệp kịp thời và ngăn chặn đổ vỡ ngay từ khi xuất hiện những nguy cơ ban đầu. Thông thường các tiêu chuẩn cho phép can thiệp phải bao gồm cả các yếu tố định lượng như thẩm định vốn điều lệ, chất lượng tài sản… và các yếu tố định tính như đánh giá chất lượng quản trị điều hành, mức độ tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý….Để đánh giá đúng tình trạng của tổ chức tín dụng cần xây dựng được một đội ngũ thẩm định chuyên nghiệp đánh giá chính xác được khả năng tài chính của tổ chức tín dụng có vấn đề. Các tiêu chuẩn thẩm định cần dựa trên giá trị thị trường. Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng cơ chế và nguyên tắc thị trường khi xử lý đổ vỡ sẽ mang lại hiệu quả tối ưu, giúp tổ chức bảo hiểm tiền gửi lựa chọn được biện pháp xử lý với chi phí thấp nhất cũng như hạn chế được những tác động xấu khác đến nền kinh tế.
Mô hình của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc lựa chọn các biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng của tổ chức này. Trên thế giới các tổ chức bảo hiểm tiền gửi thường được xây dựng theo 2 mô hình: mô hình chi trả và mô hình giảm thiểu rủi ro. Nếu như các tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo mô hình chi trả thường chỉ có một sự lựa chọn biện pháp xử lý đổ vỡ duy nhất là chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền thì các tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo mô hình giảm thiểu rủi ro tỏ ra khá ưu việt khi được phép tham gia vào quá trình can thiệp sớm, trước khi ngân hàng đóng cửa, có những tác động kịp thời để tránh những đổ vỡ không đáng có, đưa ra được các giải pháp tháo gỡ khó khăn, cải thiện hoạt động cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có vấn đề, khi nhận thấy tình trạng của tổ chức tín dụng thực sự không thể cứu vãn được, tổ chức bảo hiểm tiền gửi được thiết kế theo mô hình giảm thiểu rủi ro cũng có nhiều lựa chọn để đưa ra phương án xử lý tối ưu, lựa chọn cách thức cho tổ chức tín dụng “chết” một cách êm thấm và ít tác động xấu đến nền kinh tế nhất. Các biện pháp xử lý có thể được lựa chọn bao gồm: biện pháp mua lại và tiếp nhận nợ (Purchase and Assumption – P&A); sử dụng ngân hàng bắc cầu (Bridge banks - BBs); biện pháp hỗ trợ ngân hàng (Open – Bank Assistance - OBA) và cuối cùng là thực hiện chi trả tiền gửi. Mỗi biện pháp lại có ưu nhược điểm riêng và được sử dụng cho từng trường hợp và tình huống cụ thể.
Biện pháp mua lại và tiếp nhận nợ là biện pháp mà một ngân hàng đang hoạt động tốt hoặc một nhóm các nhà đầu tư khác sẽ đứng ra tiếp nhận một phần hoặc toàn bộ các khoản nợ, mua lại tài sản của ngân hàng bị đổ vỡ hoặc có nguy cơ đổ vỡ. Chi phí của biện pháp này thấp hơn rất nhiều chi phí khi sử dụng biện pháp chi trả. Với ưu điểm là có thể bảo lưu nghĩa vụ của ngân hàng bị đổ vỡ và duy trì ràng buộc giữa người gửi tiền với ngân hàng này, từ đó duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng. Khi sử dụng biện pháp này lợi ích của tất cả người gửi tiền sẽ được đảm bảo, nghĩa vụ của ngân hàng đối với tiền gửi tại ngân hàng đó được kéo dài và nhân viên của ngân hàng có vấn đề vấn duy trì được việc làm của mình. Đây cũng là giải pháp ít tốn kém và ít gây ra sự gián đoạn nhất, thậm chí có thể không cần dùng đến hỗ trợ tài chính từ phía chính phủ. Tuy nhiên để thực hiện được biện pháp này khá khó khăn do rất khó tìm được tổ chức tài chính đứng ra mua lại và tiếp nhận nợ của ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ, nhất là khi tình hình kinh tế và hệ thống ngân hàng đều yếu kém. Những nhà đầu tư cá nhân thường không mấy “mặn mà” với việc mua lại một ngân hàng đang bên bờ phá sản, mất khả năng thanh toán, do đó trong một số trường hợp để thực hiện được biện pháp này cần phải dùng nguồn quỹ của Chính phủ hay tổ chức bảo hiểm tiền gửi để cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng có vấn đề. Vai trò và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong biện pháp này cũng khó khăn và nặng nề hơn rất nhiều khi phải sớm xúc tiến việc định giá tài sản và các khoản nợ của tổ chức tín dụng có vấn đề, đảm bảo tuyệt đối bí mật, tránh rò rỉ thông tin cho đến khi mọi việc mua bán được hoàn tất.
Biện pháp ngân hàng bắc cầu là biện pháp được ưu tiên xem xét áp dụng hơn biện pháp P&A khi cần xử lý ngay lập tức và phải bảo lưu toàn bộ nghĩa vụ của ngân hàng đổ vỡ. “Ngân hàng bắc cầu” là thuật ngữ dùng để chỉ một ngân hàng được tổ chức bảo hiểm tiền gửi thành lập và hoạt động tạm thời để mua lại tài sản và các khoản nợ của một ngân hàng bị đổ vỡ cho đến khi thực hiện biện pháp xử lý cuối cùng. Đối với các ngân hàng có lợi thế kinh doanh, có quy mô quá lớn đang có nguy cơ đổ vỡ trước khi tìm được người mua lại tiềm năng hoặc trong trường hợp việc phá sản, giải thể của ngân hàng này sẽ gây ra những tốn thất quá lớn cho quỹ nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi và tăng nguy cơ đổ vỡ hàng loạt, biện pháp ngân hàng bắc cầu được coi là một sự lựa chọn tối ưu. Ngân hàng bắc cầu cũng được cân nhắc sử dụng nhiều khi số lượng các tổ chức tài chính đổ vỡ quá lớn và các vụ đổ vỡ xảy ra đồng loạt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Đây là biện pháp giúp tổ chức bảo hiểm tiền gửi có nhiều thời gian hơn để tìm người mua lại thích hợp và có cơ hội bán được tổ chức tín dụng có vấn đề với giá tối ưu. Tuy nhiên nếu những nỗ lực thông qua ngân hàng bắc cầu không đạt được kết quả, không tìm được nhà đầu tư mua lại ngân hàng, thì chi phí sẽ cao và thời gian của quá trình xử lý bị kéo dài hơn nhiều nếu ngay từ đầu đã áp dụng biện pháp xử lý cuối cùng.
Thuật ngữ hỗ trợ ngân hàng (Open-Bank Assistance - OBA) được dùng để chỉ biện pháp hỗ trợ một ngân hàng được bảo hiểm có nguy cơ bị đổ vỡ bằng cách cho vay trực tiếp – hỗ trợ sáp nhập – hoặc mua lại tài sản. Biện pháp này có khả năng khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán của tổ chức tài chính bị đổ vỡ, tránh được khủng hoảng dây chuyền song nó có thể ảnh hưởng nhanh chóng đến quỹ bảo hiểm tiền gửi và làm giảm nguyên tắc thị trường, làm trầm trọng hơn các vấn đề xung quanh chính sách “quá lớn không thể để đổ vỡ”.
Chi trả tiền gửi cho người gửi tiền là biện pháp chủ yếu mà các tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo mô hình chuyên chi trả sử dụng. Đây là biện pháp đơn giản, có quy trình thủ tục ít rắc rối nhất nếu so với các biện pháp khác. Nếu ảnh hưởng của việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm đến quỹ nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi có thể chấp nhận được, ngân hàng có vấn đề phá sản cũng không ảnh hưởng quá lớn đến sự ổn định của hệ thống tài chính hoặc khi không còn giải pháp nào khác thì đây là biện pháp được cân nhắc lựa chọn.
Lấy một ví dụ điển hình, trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC) là tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải gánh vác một khối lượng công việc khổng lồ song nhờ có cơ chế xử lý rõ ràng chuyên nghiệp nên FDIC đã bảo vệ được quyền và lợi ích của người tiêu dùng các dịch vụ tài chính tại Mỹ một cách đầy đủ nhất.
Nhìn lại con số ngân hàng và tổ chức tín dụng tại Mỹ bị đóng cửa đến thời điểm này chúng ta không khỏi giật mình khi chỉ tính riêng năm 2009, đã có 140 ngân hàng và tổ chức tín dụng Mỹ bị phá sản, gấp 6 lần số ngân hàng bị phá sản trong cuộc khủng hoảng ngân hàng hồi thập niên 1980. Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FIDC)đã phải chi 36 tỷ USD cứu trợ các ngân hàng trong năm 2009, lớn hơn toàn bộ số tiền 29,6 tỷ USD mà cơ quan này phải chi trong 5 năm khủng hoảng ngân hàng từ 1987-1992. Từ đầu năm 2010 đến nay đã có 108 ngân hàng và tổ chức tín dụng tại Mỹ phải đóng cửa. Con số dự báo có thể có tới trên 200 ngân hàng Mỹ sẽ phá sản trong năm nay và tổng số tiền FDIC phải tiếp tục chi sẽ lên gấp 10 lần số tiền cứu trợ tương tự trong cuộc khủng hoảng ngân hàng Mỹ những năm 1980 (1). Qua những con số trên, có thể nhận thấy một phần hậu quả nặng nề mà nền kinh tế Mỹ phải gánh chịu sau cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008.
Tuy nhiên, đến thời điểm này dường như những cuộc đổ vỡ ngân hàng tại Mỹ diễn ra khá “êm thấm”, không có hiện tượng người dân chen lấn, xô đẩy để rút tiền từ tài khoản của mình tại các ngân hàng bị phá sản. Nếu điều này xảy ra, hậu quả mà hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ nói riêng và nền kinh tế Mỹ nói chung phải gánh chịu sẽ vượt xa khả năng chống đỡ của nền kinh tế và không biết đến khi nào nước Mỹ mới có thể bước ra khỏi khủng hoảng. Có được kết quả đó là nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giám sát tài chính của Mỹ cũng như sự phản ứng nhanh chóng kịp thời của FDIC đã ngăn chặn được tâm lý hoang mang của dân chúng, tránh được những phản ứng tiêu cực. Các biện pháp xử lý như ngân hàng bắc cầu, P&A và chi trả bảo hiểm, nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi… đều đã được FDIC nghiên cứu sử dụng trong các hoàn cảnh thích hợp. Điểm nổi bật của FDIC đó chính là “sự tinh tế” trong quá trình giải quyết đổ vỡ, lựa chọn được giải pháp thích hợp của tổ chức này khi chỉ vài ngày sau thời điểm các ngân hàng tuyên bố đóng cửa, toàn bộ tài khoản tiền gửi của khách hàng đều được FDIC chuyển sang một ngân hàng tiếp nhận khác (2). Đó có thể là ngân hàng bắc cầu do FDIC thành lập cũng có thể là ngân hàng tiếp nhận do FDIC thương lượng. Do đó khách hàng vẫn có thể giao dịch bình thường tại tài khoản của mình ở ngân hàng phá sản trong khoảng thời gian nhất định. Điều này làm cho người gửi tiền tránh được cảm giác “hụt hẫng”, có thời gian nhất định để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài khoản của mình. FDIC cũng có được khoảng thời gian quý báu để lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp hơn khi mà số lượng các ngân hàng phá sản của Mỹ tăng lên từng ngày.
Thực trạng hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ tại Việt Nam
Quay trở lại với hoạt động xử lý ngân hàng tại Việt Nam, có thể nhận thấy cho đến nay tại Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một cơ chế xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề một cách chuẩn mực. Luật Phá sản không đi vào cuộc sống đồng thời việc một ngân hàng đổ vỡ là rất nhạy cảm do đó các cơ quan giám sát rất ngại để một ngân hàng “chết” vì sợ những hệ lụy mà nó gây ra cho nền kinh tế. Các tổ chức tín dụng khi có vấn đề được kiểm soát theo Thông tư 08/2010-TT-NHNN về kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng ban hành ngày 22 tháng 3 năm 2010 và Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 92/2001/QĐ-NHNN ngày 8 tháng 02 năm 2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước theo đó thời gian tối đa để đặt các tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt là 2 năm. Tuy nhiên khi các hoạt động xử lý và tiếp nhận được áp dụng vẫn còn rất hạn chế và chưa có được quy trình chuẩn mực để thực hiện thì nguy cơ thời gian xử lý bị kéo dài, gia hạn nhiều lần là rất lớn.
Tại Việt Nam, tổ chức bảo hiểm tiền gửi ra đời và đi vào hoạt động đến nay đã được 10 năm, các nghiệp vụ liên quan đến xử lý đổ vỡ ngân hàng được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) triển khai đến thời điểm này bao gồm nghiệp vụ cho vay hỗ trợ tài chính, chi trả tiền gửi được bảo hiểm, và tham gia quá trình thanh lý các tổ chức tín dụng bị phá sản giải thể để thu hồi vốn hoàn trả cho quỹ nghiệp vụ Bảo hiểm tiền gửi.
Công tác hỗ trợ tài chính tại Bảo hiểm tiền gửi mới chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm chưa có quy chế chính thức. Với nguyên tắc thận trọng, đúng đối tượng, sau hơn 4 năm triển khai thực hiện đề án thí điểm nghiệp vụ hỗ trợ tài chính, cho vay hỗ trợ đối với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, DIV đã cho vay hỗ trợ đối với 04 quỹ tín dụng nhân dân với tổng số tiền hơn 6 tỷ đồng. Ba trong số bốn quỹ tín dụng nhân dân đã phục hồi hoạt động, bảo vệ tốt người gửi tiền và hoàn trả đầy đủ số tiền được vay hỗ trợ cho DIV.
Về hoạt động chi trả bảo hiểm tiền gửi, đến nay, DIV đã chi trả cho người gửi tiền tại 37 quỹ tín dụng nhân dân với tổng số tiền gần 19 tỷ đồng. Việc chi trả tiền gửi được thực hiện nhanh chóng, tâm lý người gửi tiền nhờ được trấn an và hoàn toàn tin tưởng vào sự bảo vệ của DIV nên khá yên tâm, không gây ra những bất ổn về kinh tế xã hội.
Nếu nhìn lại thời kỳ tám ngàn hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ vào những năm cuối thập niên 80, quyền lợi của người gửi tiền không được đảm bảo do đó người dân đã có những phản ứng tiêu cực gây mất ổn định trật tự an ninh xã hội địa phương, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân và niềm tin vào hệ thống tài chính ngân hàng bị suy giảm nghiêm trọng, việc huy động vốn vì thế rất khó khăn, hậu quả để lại cho Nhà nước, cho người gửi tiền là rất nặng nề. Hay như nghiên cứu quá trình xử lý đổ vỡ trước đây tại một số ngân hàng cổ phần như Nam Đô, Việt Hoa - hai ngân hàng bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt đến nay đã 13 năm mà vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng. Chưa được phá sản, cũng chưa giải thể, không còn khả năng tiếp tục hoạt động, hai ngân hàng chỉ còn lại cái tên và những món nợ lớn không có khả năng trả mặc dù tại thời điểm xảy ra vấn đề bất ổn ngân sách nhà nước đã phải bơm vào đó một khoản tiền khá lớn để xử lý hậu quả mà nó gây ra. Nhắc lại điều này để thấy một cái nhìn rõ nét về vai trò của DIV với người gửi tiền và ổn định hệ thống tài chính ngân hàng.
Như vậy, Chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam đã có những hiệu quả nhất định. Song cũng phải thẳng thắn nhìn nhận, nếu tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ là các ngân hàng thương mại, quy mô lớn hơn các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở rất nhiều lần thì những công cụ xử lý các tổ chức tín dụng đổ vỡ hiện có của DIV chưa thể đủ để có thể giải quyết theo đúng cơ chế thị trường, đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính ngân hàng.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu và mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới, đến năm 2012 theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, chúng ta sẽ thực hiện mở cửa khu vực tài chính ngân hàng và việc chuẩn bị những công cụ cần thiết và đầy đủ để kiểm soát và xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề theo đúng cơ chế thị trường là việc làm cần thiết hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, cũng cần lựa chọn cơ quan giám sát có chức năng nhiệm vụ chính trong việc xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề và quy định cụ thể mối liên hệ giữa các cơ quan trong bộ máy giám sát để đưa ra được quy trình chuẩn mực và hiệu quả nhất. Trước mắt để nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp nhận và xử lý của DIV cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi, tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động của tổ chức BHTG đầy đủ đồng thời tổ chức BHTG phải được trao đầy đủ chức năng thẩm quyền để có thể chủ động và linh hoạt xử lý đổ vỡ và tham gia xử lý khủng hoảng.
Hai là, nâng cao năng lực tài chính cho DIV để tổ chức này đảm bảo khả năng chống đỡ khi xảy ra các vụ đổ vỡ quy mô lớn
Ba là nghiên cứu áp dụng các phương pháp xử lý đổ vỡ hiện đại như P&A, BBs và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam
Bốn là, Xây dựng quy trình xử lý khủng hoảng hệ thống: cần xác định thế nào là khủng hoảng hệ thống, quy định cụ thể công việc, quyền hạn của từng cơ quan trong mạng an toàn tài chính khi tiến hành xử lý ngân hàng đổ vỡ và xử lý khủng hoảng.
Tài liệu tham khảo:
1. MH, Mỹ: Hơn 200 ngân hàng có thể phá sản trong năm 2010, website BHTG, 22/01/2010
2. Nhóm Nghiên cứu Phòng NCTH&HTQT, Thấy gì từ việc xử lý khủng hoảng các ngân hàng ở Mỹ của Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang, Thông tin Bảo hiểm tiền gửi, 10/2008
3. Ủy ban nghiên cứu và hướng dẫn IADI, Hướng dẫn chung về xử lý các ngân hàng đổ vỡ, 12/2005
3. Website NHNN, BHTG…
Các tin khác
Đồng chí Đặng Duy Cường được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Ngày 18/9/2024, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) tổ chức Lễ công bố Quyết định chỉ...
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tập huấn về kiểm soát đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân
Ngày 21 và 22/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã tổ chức tập huấn về kiểm soát đặc biệt (KSĐB) đối với quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) cho các cán bộ nghiệp vụ tại Chi nhánh.
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Tây Bắc Bộ tổ chức tọa đàm chính sách bảo hiểm tiền gửi
Sáng ngày 25/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Tây Bắc Bộ...
Ông Phạm Trường Giang – Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Phú Thọ: Đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Phú Thọ trong việc triển khai chính sách BHTG trên địa bàn
Đó là khẳng định của ông Phạm Trường Giang – Giám đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh...
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Đông Bắc Bộ tuyên truyền chính sách BHTG tại Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lạng Sơn
Ngày 21 và 22/8/2024, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Đông Bắc Bộ đã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ (HLHPN) tỉnh Lạng Sơn tổ chức tuyên truyền chính sách BHTG tại hai lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội cho Chủ tịch HLHPN cấp cơ sở và Chi hội trưởng Phụ nữ năm 2024.