Có thể hiểu, TCVM là việc cấp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp các khoản vay nhỏ (gọi là tín dụng vi mô), nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ. TCVM thường kéo theo hàng loạt các dịch vụ khác như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, vì những người nghèo, người có thu nhập thấp có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng thường khó tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.
Tổ chức TCVM là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ.
Tài chính vi mô – Công cụ xóa đói giảm nghèo, ngăn ngừa tín dụng đen
Hiện nay, có nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ TCVM ở Việt Nam, có thể chia thành ba loại. Thứ nhất là các đơn vị được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD), ví dụ các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô. Thứ hai, các đơn vị không hoạt động theo pháp luật ngân hàng mà theo Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về hoạt động của chương trình, dự án TCVM của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức phi Chính phủ, được các cơ quan chính phủ cấp giấy phép hoạt động và chịu sự giám sát của các cơ quan này, bao gồm các tổ chức vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi Chính phủ. Thứ ba, các đơn vị phi chính thức hoạt động ngoài quy định và kiểm soát của Chính phủ.
Tại Việt Nam có khoảng 04 tổ chức TCVM chính thức được NHNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Luật TCTD, gồm: tổ chức TCVM trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương (TYM), tổ chức TCVM trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên M7 (MF – MFI), tổ chức TCVM trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên Thanh Hóa (Thanh Hóa MFI) và TCTCVM trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP). Ngoài ra, có các TCTD khác cũng cung cấp dịch vụ TCVM tại Việt Nam, như Ngân hàng Chính sách xã hội và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.
Trong những năm qua, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế và đặc biệt trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, trong đó có phần đóng góp đáng khích lệ của hoạt động TCVM. Hoạt động TCVM tiếp tục khẳng định được vai trò quan trọng trong việc gia tăng mức độ tiếp cận dịch vụ tài chính của người nghèo, người có thu nhập thấp, góp phần quan trọng thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo, hạn chế cho vay nặng lãi, đặc biệt ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa.
Với các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt và các khoản vay nhỏ, thủ tục nhanh gọn, thời hạn và lịch hoàn trả linh hoạt, các tổ chức, chương trình, dự án TCVM đã giúp người nghèo, người có thu nhập thấp dễ dàng tiếp cận dịch vụ tài chính hiệu quả để cải thiện đời sống và tổ chức sản xuất, kinh doanh. Ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, hoạt động TCVM còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc khi khách hàng TCVM được thụ hưởng nhiều dịch vụ phi tài chính đa dạng như chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh; nâng cao kiến thức về sức khỏe, dân số, kế hoạch hóa gia đình; khám và tư vấn sức khỏe.
Quyền lợi người gửi tiền tại tổ chức tài chính vi mô luôn được đảm bảo
Luật BHTG 2012 và Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG đã quy định và hướng dẫn chi tiết: “Tổ chức TCVM phải tham gia BHTG đối với tiền gửi của cá nhân, bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng TCVM, trừ tiền tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức TCVM”. Như vậy, tương tự các TCTD khác, quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức TCVM luôn được đảm bảo và cũng là để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tiết kiệm thuận lợi nhằm huy động và mở rộng quy mô nguồn vốn cho loại hình tổ chức TCVM.
Thực tế, các sản phẩm tiết kiệm của các tổ chức TCVM đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và khẳng định uy tín, sự tin cậy của các tổ chức TCVM đối với các thành viên. Với đặc điểm ưu việt của loại hình TCVM là hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên có thu nhập thấp với hình thức cho vay tín chấp thông qua bảo lãnh của nhóm khách hàng vay vốn (5 đến 7 người trở lên) nên khi có khách hàng trong nhóm gặp khó khăn chưa trả được nợ đến hạn, các thành viên còn lại sẽ hỗ trợ trả nợ. Phương thức trả gốc và lãi linh hoạt theo tuần, 2 tuần, tháng hoặc quý phù hợp với mục đích của từng khoản vay và chu kỳ sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức TCVM ở mức thấp, kết quả kinh doanh đạt khá cao với thu nhập lớn hơn chi phí.
Thời gian qua, BHTG Việt Nam luôn chú trọng triển khai chính sách BHTG tại khối các tổ chức TCVM đồng bộ cùng với các loại hình tổ chức tham gia BHTG khác mặc dù số lượng tổ chức TCVM hiện tại vẫn còn khiêm tốn. Công tác thực hiện chính sách BHTG tại các tổ chức TCVM được BHTG Việt Nam tiến hành kịp thời và đầy đủ thông qua một loạt các hoạt động nghiệp vụ như: cấp, cấp lại Chứng nhận tham gia BHTG; tham gia giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ và tham gia xử lý trong quá trình Tái cơ cấu các TCTD; thông tin tuyên truyền chính sách BHTG.
Cụ thể, về tham gia công tác giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, BHTGVN luôn nỗ lực đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất theo Quy chế kiểm tra của BHTGVN, góp phần phát hiện thiếu sót và hạn chế trong quản trị điều hành, kiểm soát nội bộ, huy động vốn, hoạt động tín dụng, hạch toán, thu chi tiền mặt, quản lý giấy tờ sổ sách... cũng như mức độ thi hành nghiêm túc quy định của pháp luật về BHTG. BHTG Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ các tổ chức TCVM xác định rõ nguyên nhân, kiến nghị biện pháp khắc phục.
Bên cạnh đó, BHTG Việt Nam xác định thông tin tuyên truyền chính sách BHTG là một trong những nghiệp vụ quan trọng cần đẩy mạnh tại các tổ chức TCVM. Từ đó, nâng cao nhận thức của chính tổ chức TCVM về chính sách BHTG, tăng cường ý thức tự giác chấp hành quy định, hướng dẫn của BHTG Việt nam, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hàng quốc gia.
Ngoài vai trò của BHTG, thời gian qua, môi trường pháp lý cho hoạt động TCVM tại Việt Nam cũng không ngừng được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện cho TCVM phát triển, qua đó thúc đẩy tài chính toàn diện và góp phần xóa đói giảm nghèo, ngăn ngừa tín dụng đen.
Hoàn thiện môi trường pháp lý để phù hợp hơn với hoạt động tài chính vi mô
Sau khi Luật TCTD năm 2010 được thông qua và tổ chức TCVM chính thức được công nhận là một loại hình TCTD, các văn bản hướng dẫn về hoạt động của tổ chức TCVM đã từng bước được hoàn thiện. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2018, có 3 văn bản quan trọng được ban hành mới, gồm: quy định mới về việc cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức TCVM (Thông tư số 03/2018/TT-NHNN ngày 23/2/2018); quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi của tổ chức TCVM (Thông tư số 10/2018/TT -NHNN ngày 12/03/2018); hướng dẫn chế độ tài chính đối với tổ chức TCVM (Thông tư số 18/2018/TT-BTC ngày 12/02/2018).
Quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động TCVM của các chương trình, dự án TCVM của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ cũng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành (Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg ngày 12/6/2017) nhằm khuyến khích, tạo điều kiện chuyển đổi các chương trình, dự án TCVM quy mô lớn thành tổ chức TCVM và tăng cường hoạt động giám sát, quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương đối với hoạt động TCVM…
Với hành lang pháp lý hiện nay, hoạt động của các tổ chức TCVM và các chương trình, dự án TCVM sẽ được quản lý chặt chẽ hơn và được tạo điều kiện phát triển an toàn, bền vững, minh bạch và hiệu quả hơn.
Năng lực hoạch định chính sách và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước được chú trọng tăng cường với nhiều hoạt động hỗ trợ song phương và đa phương đến từ các tổ chức tài chính quốc tế và các quốc gia có hoạt động TCVM phát triển. Năng lực của tổ chức TCVM và các chương trình, dự án TCVM được nâng cao. Các chương trình, dự án TCVM của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ được Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố, các Sở, ban, ngành quan tâm tạo điều kiện hoàn thiện hồ sơ, thủ tục đăng ký hoạt động hoặc chuyển đổi sang tổ chức TCVM theo đúng quy định tại Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg.
Công tác quản lý, giám sát hoạt động TCVM và công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về TCVM được các cấp, các ngành quan tâm, tăng cường, nhờ đó hoạt động của các tổ chức TCVM và các chương trình, dự án TCVM dần đạt hiệu quả. Công tác phối hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội có chương trình, dự án TCVM với Ngân hàng Chính sách xã hội và Agribank các tỉnh, thành phố trong việc kiểm tra sử dụng vốn tại các hộ vay, xử lý nợ đối với các khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan được nâng cao. Công tác củng cố, kiện toàn các tổ vay vốn, tổ tiết kiệm, chấn chỉnh các tổ yếu kém, hoạt động không hiệu quả được thường xuyên chú trọng. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về TCVM trong toàn xã hội được các cấp, các ngành và các cơ quan truyền thông, báo chí quan tâm thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng giúp người dân hiểu rõ về vai trò, lợi ích của TCVM...
Về nguồn vốn cho hoạt động TCVM: Để tạo điều kiện về nguồn vốn cho hoạt động TCVM, các bộ, ngành đã có nhiều cơ chế, chính sách thiết thực, trong đó hỗ trợ các tổ chức TCVM tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi thông qua khai thác, tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế…UBND các tỉnh, thành phố đã quan tâm bố trí kinh phí để bổ sung nguồn vốn hoạt động cho các tổ chức chính trị - xã hội có chương trình, dự án TCVM trên địa bàn; tích cực vận động, thu hút nguồn tài trợ, viện trợ nước ngoài cho hoạt động TCVM...
Nhờ đó, vai trò hoạt động của TCVM trong phát triển kinh tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo đã được các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội nhìn nhận đầy đủ, đúng đắn, toàn diện hơn và được quan tâm, tạo điều kiện phát triển hơn.
Hoạt động tài chính vi mô còn nhiều khó khăn, thách thức
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất khả quan nhờ sự nỗ lực vào cuộc của các cấp, các ngành vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận tài chính cho người nghèo và người có thu nhập thấp, nhưng hoạt động TCVM tại Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ.
Cụ thể: Công tác quản lý còn thiếu tập trung, công tác phối hợp còn nhiều bất cập dẫn đến việc kiểm tra, giám sát và xây dựng, ban hành các văn bản điều chỉnh đối với hoạt động TCVM còn chậm.
Bên cạnh đó, mặc dù khuôn khổ pháp lý hiện hành áp dụng cho hoạt động TCVM đã được xây dựng tương đối đầy đủ nhưng quá trình triển khai trong thực tiễn vẫn còn một số bất cập. Một số quy định cần tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với đặc thù hoạt động TCVM, nhất là các quy định liên quan đến việc quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài; quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; quy định tổ chức và hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện; quy định về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ...
Hơn nữa, Hiệp hội TCVM chưa được thành lập để thực hiện vai trò là tổ chức đại diện, làm đầu mối hỗ trợ đào tạo, tư vấn cho các tổ chức TCVM, chương trình, dự án TCVM một cách có hệ thống...
Ngoài ra, tỷ lệ người nghèo, hộ gia đình có thu nhập thấp tại Việt Nam khá cao nên nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống của các thành viên từ các tổ chức TCVM và chương trình, dự án TCVM ngày càng lớn trong khi việc tăng trưởng nguồn vốn của các chương trình, dự án TCVM gặp khó khăn. Nguồn vốn ưu đãi, vốn huy động từ các tổ chức, cơ quan, đoàn thể còn hạn chế; nhiều chương trình, dự án phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ. Khó khăn về nguồn vốn đã khiến nhiều chương trình, dự án TCVM có quy mô hoạt động nhỏ bé, thiếu chuyên nghiệp và chưa có tầm lan tỏa sâu rộng.
Trong khi đó, khu vực TCVM không chính thức (bao gồm hoạt động cá nhân theo nhóm lẻ thông qua các hình thức như hụi/họ, vay mượn họ hàng, bạn bè, láng giềng hoặc đi vay của người cho vay lãi, vay cầm đồ...) tiềm ẩn nguy cơ về lãi suất cao quá sức chịu đựng của người vay và rủi ro mất an toàn vốn cho người tham gia gửi tiền, gây ảnh hưởng đến đời sống của người nghèo và người có thu nhập thấp cũng như an ninh, trật tự tại các địa phương.
Chưa kể, tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, người gửi tiền tại các tổ chức TCVM còn chưa nắm được chính sách BHTG nên còn tâm lý e ngại. Một số tổ chức TCVM chưa am hiểu chính sách BHTG hoặc triển khai chưa đầy đủ nên hạn chế trong việc khuyến khích người dân gửi tiền tại tổ chức này. Việc thực thi chính sách BHTG tại các tổ chức TCVM cũng vẫn còn nhiều bất cập như: có những tổ chức TCVM nộp đơn đăng ký tham gia BHTG chưa đúng thời gian quy định; chưa cung cấp đủ những thông tin báo cáo theo quy định của NHNN về chế độ thông tin báo cáo; còn nhiều sai sót trong chấp hành các quy định pháp luật về BHTG. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhận thức của chính các tổ chức TCVM đối với quy định của pháp luật về BHTG mới dừng ở mức cơ bản; mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc cung cấp thông tin về thành lập và quá trình hoạt động của những tổ chức này chưa sâu sát...
Cần tiếp tục tạo điều kiện cho tài chính vi mô phát triển
Để tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp xây dựng, phát triển hoạt động TCVM, thứ nhất, về phía cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương: NHNN cần phối hợp các Bộ ngành liên quan xây dựng, ban hành các quy định để tạo điều kiện liên kết hoạt động của các loại hình TCTD với hoạt động của các TCTCVM; đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị xã hội đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận đăng ký các chương trình, dự án TCVM đang hoạt động theo quy định tại Điều 21, Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg. Các Bộ ngành liên quan cần nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục triển khai hoạt động TCVM và tập trung nguồn vốn dành cho TCVM; hỗ trợ các chương trình, dự án TCVM, tổ chức TCVM được cấp phép tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi khác, được hưởng nguồn vốn dành cho xóa đói, giảm nghèo từ các tổ chức, cá nhân; Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển TCVM trong kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước; nghiên cứu, sửa đổi các quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội nhằm hỗ trợ, khuyến khích sự phát triển của hoạt động TCVM... UBND tỉnh, thành phố quản lý sát sao và nắm bắt đầy đủ tình hình hoạt động của các chương trình, dự án TCVM trên địa bàn để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn hoạt động của các chương trình, dự án.
Thứ hai, cần xây dựng một chiến lược phát triển tổng thể dài hơi tiếp theo cho loại hình TCVM để loại hình này tiếp tục đóng góp tích cực hơn vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ ba, với việc Chính phủ và NHNN ban hành các quy định mới về tổ chức và hoạt động của tổ chức TCVM (Thông tư số 03/2018/TT-NHNN) và các chương trình, dự án TCVM (Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg), các tổ chức TCVM và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ cần tập trung rà soát tình hình tổ chức, hoạt động TCVM của tổ chức mình để có sự điều chỉnh, hoàn thiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững, không vì mục tiêu lợi nhuận và góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống của người nghèo và người có thu nhập thấp.
Các TCTCVM và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ có chương trình, dự án TCVM cần có chiến lược, kế hoạch phát triển trong thời gian tới phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước, trong đó cần chú trọng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với đặc thù của Việt Nam và các sản phẩm phi tài chính để hỗ trợ ngày càng hiệu quả hơn cho người nghèo và người có thu nhập thấp, mà trong đó đối tượng thụ hưởng phần lớn là phụ nữ...
Đặc biệt, tiếp tục chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến để giúp người dân, trong đó có người dân nghèo, người yếu thế nâng cao khả năng hiểu biết và dễ dàng tiếp cận với loại hình TCVM nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tài chính của người dân. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai chính sách BHTG tại các tổ chức TCVM, thông qua nhiều hình thức, trong đó có công tác thông tin, tuyên truyền để lan tỏa chính sách BHTG tới người dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; tăng cường kết nối các cơ quan trung ương, BHTG Việt Nam với các tổ chức TCVM để lan tỏa chính sách tới các tổ chức này, từ đó củng cố niềm tin của người gửi tiền tại tổ chức TCVM, gia tăng nguồn vốn cho tổ chức TCVM, kết hợp đồng bộ các chính sách khác để các tổ chức TCVM có điều kiện phát triển an toàn, lành mạnh và hiệu quả.